Tăng cường liên kết, quy hoạch trong công tác bảo tồn, phát triển nguồn gene
Chỉ đạo tại Hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị nhấn mạnh, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao, đứng thứ 14 thế giới. Đây không chỉ là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá mà còn là tài sản quốc gia, có thể sinh sôi và đóng góp lớn cho phát triển, nhưng cũng dễ mất đi nếu không được quản lý và khai thác bền vững.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị chỉ đạo tại Hội thảo. Ảnh: Linh Linh.
Theo Thứ trưởng, trong thời gian qua, ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã phát huy tốt nguồn gen và nguồn giống bản địa trong sản xuất, góp phần đưa nhiều sản phẩm nông - lâm nghiệp vươn ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trước tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu và suy giảm đa dạng sinh học, nhiều loài sinh vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, đòi hỏi phải có chiến lược bảo tồn tổng thể, thống nhất và dài hạn.
Thứ trưởng chỉ rõ ba nhóm vấn đề lớn cần được nhìn nhận và khắc phục: Thứ nhất, thiếu quy hoạch tổng thể và liên kết đồng bộ giữa các đơn vị, dẫn đến triển khai phân tán, chồng chéo. Các khu bảo tồn, vườn thực vật cần được quy hoạch theo vùng sinh thái, bảo đảm đại diện cho từng khu vực đặc trưng. Bộ sẽ giao Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp xây dựng đề án tổng thể về bảo tồn nguồn gen trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, làm cơ sở định hướng thống nhất, tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm”.
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu và bảo tồn còn nặng tính truyền thống, trong khi các công nghệ mới về sinh học, dữ liệu và trí tuệ nhân tạo chưa được ứng dụng đầy đủ. Thứ trưởng yêu cầu thời gian tới, tất cả các đề tài và dự án khoa học về bảo tồn nguồn gen phải ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học, công nghệ số, AI và dữ liệu lớn, coi đây là khâu đột phá giúp rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu.
Thứ ba, chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn hạn chế. Nhiều kết quả vẫn nằm trong phòng thí nghiệm, chưa gắn với sản xuất và sinh kế của người dân. “Một quốc gia chỉ có thể phát triển khi biết khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên di truyền, biến nghiên cứu thành sản phẩm, biến bảo tồn thành động lực phát triển", Thứ trưởng nhấn mạnh.
Về thể chế, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề nghị bổ sung quy định về tiếp cận và chia sẻ nguồn gen vào Luật Đa dạng sinh học, nằm trong chương trình một luật sửa đổi 15 luật thuộc lĩnh vực nông nghiệp và môi trường mà Bộ đang triển khai. Nội dung này sẽ làm rõ cơ chế quản lý, phạm vi và đối tượng được phép chia sẻ nguồn gen trong nước và ra nước ngoài, đồng thời tạo hành lang pháp lý minh bạch cho nghiên cứu và hợp tác quốc tế.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị cũng yêu cầu rà soát, hoàn thiện cơ chế và chính sách đầu tư cho công tác bảo tồn, ưu tiên xây dựng, nâng cấp hệ thống ngân hàng gen, trung tâm bảo tồn, vườn thực vật quốc gia, đồng thời đẩy nhanh chuyển đổi số trong quản lý nguồn gen, ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và các nền tảng số để lưu trữ, phân tích, truy xuất thông tin phục vụ nghiên cứu, chọn tạo và phát triển sản phẩm. Ông nhấn mạnh cần xác định danh mục các loài ưu tiên gồm nhóm đặc hữu, quý hiếm, nhóm có giá trị kinh tế - sinh thái và nhóm cây nhập nội tiềm năng, triển khai theo chuỗi từ điều tra, thu thập, đánh giá, bảo tồn đến phát triển và sử dụng.

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam tổ chức hội thảo "Đánh giá, bảo tồn nguồn gen giai đoạn 2016–2025 và định hướng 2026–2030" trong lĩnh vực lâm nghiệp và nông nghiệp. Ảnh: Linh Linh.
“Chúng ta phải có một hệ thống thống nhất, kết nối giữa nghiên cứu, bảo tồn và ứng dụng; giữa các viện, trường, doanh nghiệp và địa phương. Khi đó, bảo tồn nguồn gen mới thực sự trở thành nền tảng cho phát triển bền vững”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Đầu tư bảo tồn nguồn gen lâm nghiệp còn hạn chế
Bà Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhận định, chương trình bảo tồn giai đoạn 2016-2025 đã đạt được nhiều kết quả thực chất, với khoảng 30.000 nguồn gen thực vật nông nghiệp, gần 4.000 nguồn gen cây rừng, cùng hàng trăm chủng vi sinh vật được bảo tồn, đánh giá và cung cấp cho sản xuất. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính và nhân lực chuyên sâu còn hạn chế, trong khi công tác đào tạo, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật bảo tồn cho các địa phương chưa thường xuyên.
Theo bà, thách thức lớn hiện nay là kết nối mạng lưới bảo tồn ở cấp quốc gia, khi nhiều cơ sở lưu trữ vẫn hoạt động độc lập. Theo đó, bà Thu kiến nghị xây dựng cơ sở dữ liệu chung cho toàn ngành nông nghiệp và môi trường, kết hợp đầu tư nâng cấp hạ tầng bảo tồn, ngân hàng gen quốc gia và Vườn thực vật quốc gia, đồng thời ưu tiên nhóm nguồn gen đặc hữu, quý hiếm, có giá trị thương mại cao, gắn bảo tồn với nghiên cứu chọn tạo và phục hồi nguồn lợi nông nghiệp.

Chương trình bảo tồn giai đoạn 2016-2025 đã đạt được nhiều kết quả thực chất với khoảng 30.000 nguồn gen thực vật nông nghiệp, gần 4.000 nguồn gen cây rừng, cùng hàng trăm chủng vi sinh vật được bảo tồn, đánh giá và cung cấp cho sản xuất. Ảnh: Bộ KHCN.
Ông Phí Hồng Hải, Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, cho biết, mạng lưới bảo tồn lâm nghiệp hiện do Viện chủ trì, phối hợp với hơn 30 đơn vị trong và ngoài ngành, đã bảo tồn hàng trăm loài cây quý hiếm, trong đó có nhiều loài cực kỳ nguy cấp như sâm Lai Châu, hoàng đàn hữu liên, và rất nguy cấp như thủy tùng, trắc, gõ đỏ. Viện đã xây dựng 67 ha vườn sưu tập và 80 ha mô hình thâm canh nguồn gen, cùng ngân hàng hạt giống lưu giữ gần 4.000 xuất xứ của hơn 100 loài cây bản địa và nhập nội.
Theo ông Hải, khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu kinh phí dài hạn cho nghiên cứu, bảo dưỡng và nhân giống vô tính các loài quý, trong khi áp lực biến đổi khí hậu và suy giảm rừng tự nhiên ngày càng tăng. Để khắc phục, ông kiến nghị cần chuẩn hóa quy trình điều tra, thu thập, đánh giá và phát triển nguồn gen, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, huy động thêm nguồn lực xã hội hóa, và từng bước xây dựng các Vườn thực vật quốc gia đúng nghĩa, có đủ điều kiện bảo tồn và phát triển bền vững nguồn gen cây rừng Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng việc bảo vệ và quản lý an toàn nguồn gen vẫn cần được quan tâm nhiều hơn, vì nếu không được lưu giữ, số hóa và quản trị bài bản, tài nguyên di truyền quý giá có thể bị thất thoát. Thời gian tới, Bộ sẽ đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý nguồn gen, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, tăng cường liên kết mạng lưới bảo tồn, kết nối giữa các viện, trường, địa phương và doanh nghiệp. Mục tiêu là khai thác hợp lý, phát triển bền vững nguồn gen gắn với mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh, hiện đại và có giá trị gia tăng cao.