Thách thức dịch bệnh
Lươn từ lâu đã trở thành đối tượng thủy sản quen thuộc, được xem là “đặc sản” của TP. Cần Thơ và nhiều tỉnh vùng ĐBSCL. Nghề nuôi lươn được bà con nông dân rất quan tâm bởi vốn đầu tư không lớn, tận dụng được diện tích mặt nước nhỏ, trong khi hiệu quả kinh tế khá cao nhờ thị trường tiêu thụ rộng mở.

Nghề nuôi lươn đang phát triển mạnh ở vùng ĐBSCL với đa dạng hình thức nuôi, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro dịch bệnh. Ảnh: Kim Anh.
Tuy nhiên, loài thủy sản này khá nhạy cảm với sự thay đổi môi trường, nhất là nguồn nước không đảm bảo. Theo Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp TP. Cần Thơ, tỷ lệ hao hụt trong quá trình nuôi có khi lên đến 70-80% nếu khâu kỹ thuật và quản lý nguồn nước, thức ăn không được tuân thủ nghiêm ngặt.
Một số bệnh thường gặp trên lươn là xuất huyết (đốm đỏ), nấm thủy mi, đường ruột, nóng sốt. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ ba yếu tố: con giống kém chất lượng, mang sẵn mầm bệnh hoặc bị xây xát trong quá trình vận chuyển; môi trường nước bị ô nhiễm do tồn dư thuốc bảo vệ thực vật hoặc biến động nhiệt độ; thức ăn không đảm bảo, cho ăn dư thừa.
Ngoài ra, nuôi lươn với mật độ quá dày, vượt quá khả năng quản lý của hộ nuôi cũng khiến dịch bệnh trên lươn dễ bùng phát.
Theo bà Quách Thị Thanh Bình, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Cần Thơ, nghề nuôi lươn tại thành phố bắt đầu cách đây khoảng 10 năm. Bà con chủ yếu nuôi theo hình thức trong ao bùn, sử dụng con giống bắt từ tự nhiên, do đó, việc kiểm soát dịch bệnh tại các ao nuôi không đảm bảo.
Bên cạnh đó, quy mô nuôi nhỏ lẻ, diện tích hẹp và nguồn nước phổ biến lấy trực tiếp từ tự nhiên, khiến rủi ro trong quá trình nuôi lươn càng lớn. Bởi một khi môi trường bên ngoài biến động, nắng nóng kéo dài hoặc mưa lớn liên tục, chất lượng nước dễ suy giảm, khiến lươn bị sốc, sức đề kháng suy yếu và mắc bệnh.
Biểu hiện lươn bệnh có thể quan sát khá rõ như: lươn bơi tách đàn, ngóc đầu lên mặt nước, giảm ăn, thân trầy nhớt, cuốn vào nhau, tiết nhiều nhớt, đầu sưng to, chết hàng loạt… Nếu hộ nuôi không phát hiện và xử lý kịp thời, bệnh lây lan nhanh sẽ gây thiệt hại nặng cho cả ao nuôi.

Việc quản lý chất lượng con giống và nguồn nước là các yếu tố rất quan trọng để hạn chế dịch bệnh trong quá trình nuôi lươn. Ảnh: Kim Anh.
Để hạn chế rủi ro, người nuôi cần chú trọng tuân thủ và áp dụng đúng đắn, hiệu quả các biện pháp phòng bệnh cho lươn, nhằm làm giảm tỷ lệ hao hụt, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao năng suất, lợi nhuận.
Đối với việc chọn giống, hộ nuôi cần tìm mua ở những cơ sở cung cấp giống đáng tin cậy, có kiểm dịch. Lươn giống có màu sắc tươi sáng, kích cỡ đồng đều, không bị mất nhớt, trầy xước, xây xát và tách đàn… Mật độ thả nuôi hợp lý trung bình 100-200 con/m2.
Nguồn nước trong bể nuôi lươn phải sạch, tốt nhất bà con nên xây dựng bể lắng. Cơ quan chuyên môn cũng lưu ý bà con, khi kiểm tra thấy nước bốc mùi hôi tanh hoặc có màu đen cần thay nước ngay. Xử lý nước định kỳ 1 lần/tuần bằng iod, thuốc tím… và thay nước 1-2 lần/ngày, mực nước trong bể tốt nhất 20-30cm. Bên cạnh đó, bà con có thể bố trí mái che để hạn chế sự biến động môi trường nước đột ngột khi thời tiết nắng nóng hay mưa kéo dài.
Về thức ăn, bà con nên sử dụng loại viên, không bị nhiễm nấm mốc, còn hạn sử dụng và tránh cho ăn dư thừa gây ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh đó, định kỳ hàng tháng, hộ nuôi cần kiểm tra, đánh giá tốc độ tăng trưởng của lươn, đồng thời điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp với tăng trọng.
Hàng ngày, bà con chú ý theo dõi mọi hoạt động của lươn, nếu thấy có dấu hiệu bất thường kịp thời xử lý ngay. Định kỳ 1 tuần/lần trộn vitamin, khoáng để tăng cường sức đề kháng cho lươn.
Một lưu ý nữa là lươn có tập tính tăng trưởng không đều, dễ phân đàn, thậm chí ăn lẫn nhau. Vì vậy, định kỳ 1-1,5 tháng, hộ nuôi tiến hành phân cỡ để tách riêng những nhóm lươn khác kích thước. Trước đó, cần cho lươn nhịn ăn một ngày để giảm stress và dùng dụng cụ trơn láng thay vì tay trần để hạn chế xây xát.

Tập tính của lươn là sống chui rút, cần bóng tối, vì thế cần che mát để lươn dễ thích nghi với điều kiện nuôi. Ảnh: Kim Anh.
Nuôi lươn không bùn, an toàn dịch bệnh
Những năm gần đây, nhờ chủ động được nguồn giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp chất lượng cao, nhiều hộ nuôi ở TP. Cần Thơ đã mạnh dạn mở rộng diện tích, chuyển đổi sang nuôi lươn không bùn. Phổ biến là nuôi trong bể xi măng, lót bạt, bể composite…
Ưu điểm lớn của mô hình này là người nuôi dễ quan sát và kiểm soát tốt chất lượng nguồn nước và sức khỏe đàn lươn, kịp thời phát hiện dấu hiệu bệnh để xử lý nhanh, hạn chế thiệt hại.
Thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Cần Thơ, thành phố hiện có trên 18,4 ha nuôi lươn, với khoảng 1.900 hộ nuôi, hầu hết là nuôi lươn không bùn ở quy mô nông hộ, diện tích mặt nước dưới 200m2/hộ. Các mô hình tập trung nhiều tại các xã Xà Phiên, Vĩnh Viễn, Nhơn Mỹ, Đại Ngãi, Liêu Tú và phường Vị Tân.
Kết quả thực tế cho thấy, mô hình này mang lại hiệu quả kinh tế rất khả quan cho bà con. Chị Đặng Thị Thu Phượng ở xã Tân Hòa cho biết, lợi nhuận trung bình từ mô hình đạt khoảng 30%, nếu giá cả tăng cao, lợi nhuận có thể lên tới 40-50%.

Mô hình nuôi lươn không bùn hiện đang trở thành xu hướng phát triển hiệu quả cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.
Gia đình chị Phượng đang nuôi nhiều lứa lươn, mỗi lứa khoảng 10.000 con, theo hình thức xoay vòng. Lươn nuôi đạt kích cỡ từ 50-100 gram/kg đã có thể xuất bán, mỗi năm gia đình chị thu lãi gần 200 triệu đồng.
“Nuôi lươn không dễ, nhưng cũng không quá khó. Quan trọng nhất, hộ nuôi phải giữ nguồn nước luôn sạch. Nước dơ phải thay ngay bởi đặc tính lươn rất nhạy cảm. Thức ăn dư thừa trong bể nuôi cũng ảnh hưởng đến sức khỏe lươn”, chị Phượng chia sẻ kinh nghiệm.
Ông Nguyễn Vĩnh Thọ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hòa đánh giá, mô hình nuôi không bùn giúp quản lý nguồn nước, thức ăn thuận lợi, kiểm soát dịch bệnh hiệu quả hơn so với nuôi ao đất truyền thống.
Để nâng cao hiệu quả mô hình, Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Cần Thơ đang định hướng xây dựng các hình thức nuôi thân thiện với môi trường như: nuôi tuần hoàn, ứng dụng công nghệ xử lý nước, kiểm soát tốt chất lượng nguồn nước cấp và thải, giảm thiểu tác động tiêu cực đến tài nguyên nước.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các kỹ thuật nuôi tiên tiến, quản lý tốt dịch bệnh, cũng giúp lươn đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, các mô hình nuôi lươn đạt chứng nhận VietGap, GlobalGap cũng được ngành nông nghiệp và môi trường thành phố chú trọng, qua đó giúp bà con tối ưu hóa chi phí sản xuất, đảm bảo chất lượng, tăng năng suất và lợi nhuận.

Áp dụng các kỹ thuật tiên tiến giúp quy trình nuôi lươn quản lý tốt dịch bệnh, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ảnh: Kim Anh.
Ngoài ra, ngành cũng định hướng xây dựng các chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất giống, thức ăn, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ. Đặc biệt, hiện nay một phần sản lượng lươn được cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ...
Để phát huy hiệu quả, đòi hỏi quy trình nuôi và kiểm soát chất lượng lươn phải được thực hiện nghiêm ngặt. Đồng thời đa dạng các sản phẩm chế biến từ lươn như: lươn cắt khúc, khô lươn, lươn tẩm gia vị… Đây là cơ hội để nghề nuôi lươn ở TP. Cần Thơ phát triển một cách bền vững, mở rộng diện tích và sản lượng, tạo đầu ra ổn định, hình thành vùng nguyên liệu, góp phần tăng giá trị sản phẩm.