Bắt đầu từ những nhà màng dưa lưới, câu chuyện đổi mới không chỉ dừng ở một hộ gia đình mà đang dần lan ra cộng đồng xã viên.
Theo ông Nguyễn Văn An - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Thái Hòa, mô hình ứng dụng công nghệ rõ nhất hiện nay là khu nhà màng trồng dưa lưới của hộ gia đình bà Lê Thị Ly ở thôn Trâm Khê, với quy mô tới hơn 1,4 ha. Ảnh: Lan Chi.
Công nghệ số là bắt buộc nếu muốn làm nông nghiệp thông minh
Ông Nguyễn Văn An - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Thái Hòa cho biết, Hợp tác xã hiện có khoảng 1.300 thành viên, chủ yếu sản xuất lúa và cây màu. Mô hình ứng dụng công nghệ rõ nhất hiện nay là khu nhà màng trồng dưa lưới của hộ gia đình bà Lê Thị Ly ở thôn Trâm Khê, xã Thượng Hồng với quy mô tới hơn 1,4 ha.
Tại khu nhà màng này, bà Ly áp dụng nhiều kỹ thuật canh tác hiện đại mà trước đây chỉ xuất hiện ở những vùng sản xuất lớn: hệ thống tưới nhỏ giọt tự động giúp tiết kiệm nước và phân bón; theo dõi độ ẩm, dinh dưỡng của giá thể hằng ngày để điều chỉnh lượng tưới; che phủ và kiểm soát nhiệt độ trong nhà màng nhằm hạn chế sâu bệnh theo mùa.
Ngoài ra, mỗi vụ, bà đều lập lịch chăm sóc theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây, ghi chép chặt chẽ lượng vật tư đầu vào để phục vụ truy xuất nguồn gốc - bước đi quan trọng để sản phẩm dưa lưới đạt tiêu chuẩn OCOP.
“Trong bối cảnh nông nghiệp hiện đại, công nghệ số không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc. Muốn giảm lao động thủ công, tăng hiệu quả thì phải đi theo hướng nông nghiệp thông minh”, ông An khẳng định.
Những năm qua, cán bộ Hợp tác xã thường xuyên tham gia các lớp tập huấn do Trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương (trước đây) tổ chức về kỹ thuật canh tác an toàn, truy xuất nguồn gốc, chuyển đổi số trong nông nghiệp. Từ các khóa học này, Hợp tác xã chọn những hộ có quyết tâm, có điều kiện đầu tư để làm điểm, trong đó mô hình nhà màng dưa lưới của bà Lê Thị Ly là bước đi tiên phong.
Tuy vậy, Hợp tác xã mới dừng ở mức bước đầu tiếp cận: tuyên truyền cho xã viên về kinh tế số, về mã số vùng trồng, mã QR truy xuất nguồn gốc; cử người đi học, sau đó chia sẻ lại cho bà con.
Mô hình dưa lưới công nghệ cao của bà Lê Thị Ly là minh chứng cho việc nông nghiệp nông thôn hoàn toàn có thể “lên đời” nhờ công nghệ. Ảnh: Lan Chi.
“Chúng tôi rất muốn có thêm sự hỗ trợ của ngành nông nghiệp, nhất là các lớp tập huấn trực tiếp ngoài đồng về công nghệ tưới, phân tích dinh dưỡng, truy xuất nguồn gốc… Khi cán bộ kỹ thuật “cầm tay chỉ việc” thì bà con mới mạnh dạn làm theo”, ông An nói.
Cần nhiều hơn những “hạt nhân số” ở nông thôn
Chia sẻ về mô hình trồng dưa lưới, bà Ly cho biết, khó khăn lớn hiện nay không chỉ là vốn đầu tư, rủi ro thời tiết (như trận bão làm sập nhà màng khiến gia đình thiệt hại tới hàng tỷ đồng), mà còn là việc ứng dụng công nghệ số vào tiêu thụ sản phẩm.
“Hiện tôi chủ yếu bán qua thương lái. Họ thu mua, dán nhãn rồi đưa vào siêu thị hoặc các kênh phân phối của họ. Tôi rất muốn đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử, lên mạng xã hội như Zalo, TikTok… nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu, cần ai hướng dẫn”, bà Ly nói.
Để được công nhận OCOP, mô hình dưa lưới phải đáp ứng nhiều yêu cầu về nhật ký sản xuất, ghi chép vật tư đầu vào, mã số vùng trồng, mã vạch sản phẩm… Đây đều là những nội dung gắn chặt với chuyển đổi số. Tuy nhiên, phần lớn xã viên vẫn còn lạ lẫm với việc sử dụng phần mềm hay ứng dụng di động để ghi chép điện tử.
“Chúng tôi rất mong có các khóa tập huấn chuyên sâu về truy xuất nguồn gốc, về cách sử dụng mã QR, xây dựng thương hiệu số, bán hàng trực tuyến… Nếu làm tốt được những khâu này thì giá trị sản phẩm dưa lưới sẽ còn tăng lên, không chỉ phụ thuộc vào thương lái”, bà Ly bày tỏ.
Từ góc độ Hợp tác xã, ông Nguyễn Văn An nhìn nhận mô hình dưa lưới công nghệ cao của bà Ly là minh chứng cho việc nông nghiệp nông thôn hoàn toàn có thể “lên đời” nhờ công nghệ, nếu có sự dám nghĩ dám làm.
“Một hộ gia đình dám vay vài tỷ đồng để làm nhà màng, ứng dụng công nghệ, thuê 10 lao động làm việc quanh năm - đó là hiệu quả rất cụ thể của việc mạnh dạn đổi mới. Vấn đề là làm sao để không chỉ một mà có nhiều mô hình như thế hơn”, ông An nói.
Chia sẻ về mô hình trồng dưa lưới, bà Ly cho biết, khó khăn lớn hiện nay không chỉ là vốn đầu tư, rủi ro thời tiết, mà còn là việc ứng dụng công nghệ số vào tiêu thụ sản phẩm. Ảnh: Lan Chi.
Theo ông, để chuyển đổi số thật sự đi vào ruộng đồng, Hợp tác xã cần được đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách về công nghệ số trong nông nghiệp; trang bị các thiết bị như hệ thống tưới thông minh, cảm biến, phần mềm nhật ký điện tử; đồng thời phối hợp với cơ quan chức năng để xây dựng mã số vùng trồng, mã QR và kết nối sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử cũng như hệ thống phân phối hiện đại.
“Chúng tôi kỳ vọng những chuyển giao kỹ thuật và ứng dụng số khi đưa về xã Thượng Hồng sẽ thật sự giúp bà con nâng cao giá trị canh tác, giống như hiệu quả rõ rệt mà mô hình dưa lưới nhà màng đã mang lại. Khi đó, câu chuyện chuyển đổi số sẽ không còn là điều gì xa vời, mà chính là cơm áo của bà con, là tương lai trên từng thửa ruộng”, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Thái Hòa khẳng định.




























