Những đồi tre Bát Độ mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm cho người dân vùng cao. Ảnh: Thanh Tiến.
Tre Bát độ thay thế cây lâm nghiệp kém hiệu quả
Xã Quy Mông, tỉnh Lào Cai hiện nay được hình thành sau khi sáp nhập 3 xã Y Can, Quy Mông, Kiên Thành của huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (cũ). Vùng đất này có đông đồng bào dân tộc thiểu số như Dao, Tày, Mông cùng sinh sống. Cuộc sống của người dân chủ yếu dựa sản xuất nông, lâm nghiệp. Hơn mười năm trước, tỷ lệ hộ nghèo chiếm khoảng 20%, giao thông chưa đồng bộ, diện tích cây trồng giá trị thấp như quế còn hạn chế, và người dân thiếu kênh thông tin về kỹ thuật canh tác và thị trường.
Trong nhiều năm trở lại đây, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đang mang lại những kết quả tích cực, đặc biệt là mô hình trồng tre Bát Độ. Bên cạnh giá trị kinh tế cao, việc tiếp cận thông tin kỹ thuật, thị trường và tập huấn canh tác đúng cách đã giúp người dân nâng cao năng suất, giảm rủi ro và tăng thu nhập, từ đó giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo.
Ông Lê Văn Triệu ở thôn Tân Việt, xã Quy Mông từng trồng bồ đề trên 0,5 ha đất đồi, nhưng hiệu quả thấp. Nhờ sự hướng dẫn qua các lớp tập huấn của cán bộ khuyến nông và các buổi trao đổi trực tiếp, ông Triệu quyết định chuyển sang trồng tre Bát Độ.
Đến nay, vườn tre 120 gốc của gia đình ông đã bước sang năm thứ sáu. Trung bình mỗi năm, thu hoạch hơn 8 tấn măng. Với giá bán ổn định từ 5.000 - 5.500 đồng/kg, vườn tre mang lại doanh thu hơn 40 triệu đồng. Ông Triệu dự định, sau khi khai thác hơn 1,5ha quế vào năm tới sẽ thay thế bằng tre Bát Độ để có nguồn thu nhập ổn định hàng năm.
Một ưu điểm lớn của tre Bát Độ là kỹ thuật chăm sóc đơn giản. Gia đình ông Triệu sử dụng phân chuồng ủ hoai mục bón cho đồi tre trước mùa mưa. Phương pháp này không chỉ giúp cây trồng phát triển tốt mà còn bảo vệ đất, giữ ẩm tốt và chống thoái hóa, chai đất.
“Khác với cây bồ đề trước đây thường xuyên bị sâu lá tấn công, tre Bát Độ hầu như không có sâu bệnh. Tán tre phát triển dày cũng tự ức chế cỏ dại, giúp giảm hoàn toàn chi phí và tác động tiêu cực từ hóa chất bảo vệ thực vật. Cây tre có bộ rễ chùm phát triển mạnh, giúp giữ đất, giữ nước hiệu quả”, ông Triệu bộc bạch.
Cũng giống như nhà ông Triệu, gia đình bà Hà Thị Toán ở thôn Lương An, xã Hưng Khánh trước đây thường trồng ngô và dâu tằm ở diện tích gần khe suối. Do thường xuyên bị mưa lũ tàn phá và sâu bệnh hại khiến việc nuôi tằm không đạt hiệu quả kinh tế như mong đợi. Nhờ thông tin kỹ thuật về tre Bát Độ, thị trường măng và kỹ thuật canh tác được truyền đạt qua các kênh thông tin xã, bà Toán quyết định chuyển 2 ha sang tre Bát Độ.
Vợ chồng bà Toán tật bật thu hoạch măng. Ảnh: Thanh Tiến.
Bà Toán cho biết, việc cày bừa, cuốc xới đất trồng cây ngắn ngày rất vất vả. Trồng tre Bát Độ chỉ cần đầu tư một lần nhưng cho thu hoạch trong nhiều năm, công chăm sóc đỡ vất vả. Hiện mỗi năm bà thu nhập khoảng 150 triệu đồng, ổn định hơn hẳn trước đây. Bà chia sẻ: “Nếu không có thông tin kịp thời, biết cách chăm sóc và thị trường tiêu thụ, chúng tôi sẽ không dám đầu tư vào tre Bát Độ.”
Tiếp tục khuyến khích mở rộng vùng trồng cây đa lợi ích
Theo ông Trần Văn Tam, Phó chủ tịch UBND xã Hưng Khánh, đến nay, tổng diện tích tre của xã có gần 2.000ha. Cây tre Bát Độ đã được xác định là cây trồng chủ lực trong chương trình phát triển kinh tế của địa phương bởi đã khẳng định hiệu quả vượt trội, thay thế các loại cây giá trị thấp như bồ đề, keo, sắn... trên những diện tích đất đồi, đất bãi ven khe suối. Những hộ tham gia đầy đủ các buổi tập huấn, nhóm trao đổi thông tin... đã nhanh chóng nâng cao thu nhập, nhiều hộ thoát nghèo nhờ áp dụng đúng kỹ thuật canh tác và lựa chọn thời điểm thu hoạch theo thông tin thị trường.
Xã Hưng Khánh hiện có gần 2.000ha tre Bát Độ. Ảnh: Thanh Tiến.
Cây tre Bát Độ không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, chống xói mòn đất. Quan trọng hơn, việc tiếp cận thông tin kỹ thuật và thị trường đã giúp người dân tự tin đầu tư, chủ động canh tác và mở rộng diện tích một cách bền vững.
Cây tre Bát Độ không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, chống xói mòn đất. Quan trọng hơn, việc tiếp cận thông tin kỹ thuật và thị trường đã giúp người dân tự tin đầu tư, chủ động canh tác và mở rộng diện tích một cách bền vững. Tỉnh Lào Cai hiện có hơn 6.000 ha tre Bát Độ, và người dân đang tiếp tục áp dụng kiến thức từ các kênh thông tin để nâng cao năng suất, cải thiện thu nhập, từng bước thoát nghèo bền vững.
Tại tỉnh Yên Bái trước đây, nay là tỉnh Lào Cai, cây tre Bát Độ được đánh giá là mô hình điển hình trong canh tác trên đất dốc bởi loại cây này phù hợp với trình độ canh tác của người dân tộc vùng cao, cho hiệu quả kinh tế vượt trội, trung bình thu nhập từ 70 - 100 triệu đồng/ha/năm. Nếu thâm canh tốt có thể cho thu nhập trên 100 triệu đồng/ha.
Sau hơn hai thập kỷ bén rễ, cây tre Bát Độ đã chứng minh vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế đồi rừng. Chính quyền và người dân địa phương đang tiếp tục nỗ lực mở rộng diện tích. Đồng thời, tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình thâm canh nhằm nâng cao năng suất và chất lượng măng thương phẩm.
Các doanh nghiệp thu mua, chế biến xuất khẩu hoạt động nhộn nhịp trong mùa măng. Ảnh: Thanh Tiến.
Hàng năm, vụ thu hoạch măng thường bắt đầu trùng với mùa mưa, kéo dài từ đầu tháng 7 dương lịch đến trung tuần tháng 10. Sản lượng măng thương phẩm liên tục gia tăng qua các năm. Nhờ sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp và đơn vị thu mua, đầu ra luôn ổn định với mức giá dao động từ 5.000 đến 5.500 đồng/kg, đảm bảo nguồn thu nhập cho người trồng.
Vụ măng năm 2025 hiện đã bước vào những lứa thu hoạch cuối cùng, sản lượng măng toàn tỉnh ước đạt khoảng hơn 40.000 tấn. Có thể khẳng định cây tre Bát Độ đã góp phần đổi đời cho người dân vùng cao bởi giá trị kinh tế được chứng minh qua hàng thập kỷ đã qua.




























