Chạy đua nuôi thủy sản có chứng nhận
Trước đòi hỏi ngày càng cao từ các thị trường nhập khẩu và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nước xuất khẩu thủy sản khác, trong những năm qua, ngành thủy sản Việt Nam và các doanh nghiệp đang đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản có chứng nhận.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Việt Nam đang dẫn đầu về số trang trại có chứng nhận ASC. Trong nuôi tôm, tính đến năm 2024, Việt Nam có 321 trại tôm được chứng nhận ASC, chiếm gần 44% tổng số trại tôm có chứng nhận ASC trên toàn cầu. Các trang trại nuôi tôm có chứng nhận ASC không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn giảm tiêu thụ nước tới 20 lần, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn và sử dụng ít hóa chất hơn so với nuôi tôm không có chứng nhận.

Kiểm tra tôm nuôi tại một trang trại ở ĐBSCL. Ảnh: Sơn Trang.
Về nuôi cá tra, đến năm 2024, toàn bộ 58 trang trại cá tra trên toàn cầu có chứng nhận ASC đều ở Việt Nam. 58 trang trại này có sản lượng hơn 210.000 tấn/năm. Cá tra có chứng nhận ASC đang được xuất khẩu tới 61 quốc gia, mà phần nhiều trong số đó là các quốc gia châu Âu.
Số lượng trang trại thủy sản ở Việt Nam có chứng nhận ASC đang tiếp tục tăng lên. Chia sẻ tại Hội thảo "Chứng nhận nuôi trồng thủy sản khu vực Đông Nam Á 2025", do Hội đồng Xuất khẩu đậu tương Hoa Kỳ (USSEC) tổ chức tại TP.HCM trong tháng 9/2025, bà Duangchai Paungkaew - đại diện của ASC, cho biết, tính đến tháng 8/2025, Việt Nam đã có 396 trang trại tôm có chứng nhận ASC, chiếm 48,2% tổng số trại tôm có chứng nhận này trên toàn cầu.
Nhiều nước xuất khẩu tôm hàng đầu cũng đang đẩy mạnh thực hiện nuôi tôm có chứng nhận. Theo bà Duangchai Paungkaew, cũng đến tháng 8/2025, Ấn Độ có 187 trại tôm được chứng nhận ASC, Ecuador có 88 trại, Thái Lan 60 trại, Honduras 20 trại, Indonesia 15 trại, Venezuela 13 trại.
Đặc biệt, Ecuador tuy chỉ đứng thứ 3 về số trang trại tôm có chứng nhận ASC nhưng lại đang chiếm phần lớn sản lượng tôm có chứng nhận này trên toàn cầu (sản lượng tôm ASC của Ecuador là 504 nghìn tấn, chiếm 66,1%). Sở dĩ có điều này là do các trang trại nuôi tôm ở Ecuador có diện tích rất lớn, trang trại nhỏ nhất cũng có diện tích tới 10 ha. Nhiều trang trại rộng hàng trăm, thậm chí tới hàng nghìn ha.
Ecuador vốn có lợi thế rất lớn về phát triển nuôi tôm và đang đứng đầu về xuất khẩu tôm thế giới nhờ hệ thống sản xuất và chuỗi cung ứng cho phép ngành tôm nước này sản xuất khối lượng lớn với chi phí sản xuất thấp hơn nhiều so với các nước khác. Dù có lợi thế lớn như vậy, nhưng ngành tôm Ecuador vẫn đang đẩy mạnh thực hiện các chứng nhận nuôi trồng thủy sản. Điều này cho thấy, chứng nhận nuôi trồng thủy sản được ngành tôm Ecuador coi là một yếu tố rất quan trọng nhằm giữ vững vị thế trên thị trường tôm toàn cầu.
Thích ứng với biến động thị trường bằng thủy sản chứng nhận
Thị trường tôm nói riêng, thủy sản nói chung trên toàn cầu đang bị tác động không nhỏ bởi các chính sách thuế quan, đặc biệt là thuế đối ứng của Hoa Kỳ.
USSEC nhận định, trên thị trường thủy sản toàn cầu, thuế quan thương mại đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc định hình động lực thị trường, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, khả năng cạnh tranh và dòng chảy hàng hóa xuyên biên giới.

Một trang trại nuôi tôm công nghệ cao ở ĐBSCL. Ảnh: Sơn Trang.
Nuôi trồng thủy sản hiện cung cấp hơn một nửa sản lượng thủy sản thế giới. Vì vậy, mối liên hệ giữa chính sách thương mại (đặc biệt là thuế quan) và chứng nhận nuôi trồng thủy sản trở nên ngày càng rõ nét hơn.
Thuế quan có thể được áp dụng vì nhiều lý do: bảo vệ ngành sản xuất trong nước, đáp trả tranh chấp thương mại, hoặc thực thi các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và môi trường. Thuế quan có thể gây gián đoạn chuỗi cung ứng, làm tăng giá sản phẩm nhập khẩu và tạo lợi thế giá cho sản phẩm nội địa.
Đối với nhà xuất khẩu, thuế quan khiến chi phí tiếp cận thị trường quốc tế tăng, giảm sức cạnh tranh. Bà Duangchai Paungkaew, cho biết, sau khi Hoa Kỳ chính thức áp dụng thuế đối ứng, tổng các mức thuế (thuế đối ứng, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp) với tôm Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ đã lên tới 58,13%; tôm Ấn Độ là 34,73%; tôm Indonesia 22,9%; tôm Thái Lan 19,81%; tôm Ecuador 18,78%.
Trong bối cảnh ấy, doanh nghiệp thủy sản phải nâng cao khả năng cạnh tranh bằng các sản phẩm có giá trị gia tăng, trong đó có chứng nhận bền vững. Bởi người tiêu dùng hiện nay có thể ưu tiên chọn sản phẩm trong nước có chứng nhận, đặc biệt khi thị trường coi trọng tính bền vững, truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm.
Bắt đầu từ vai trò nâng cao an toàn thực phẩm thủy sản cho người mua từ những năm 2000, các chương trình chứng nhận nuôi trồng thủy sản đã có những bước tiến dài trong việc cải thiện ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu. Đến nay, dù vẫn còn những ý kiến phê bình về các chứng nhận nuôi trồng thủy sản hiện nay, nhưng với những doanh nghiệp thủy sản muốn tiếp cận thị trường xuất khẩu và khách hàng trọng điểm, việc tuân thủ một hệ thống chứng nhận gần như đã trở thành điều kiện bắt buộc.
Bên cạnh đó, chứng nhận thủy sản còn mang lại nhiều lợi ích khác như thúc đẩy tư duy và cách tiếp cận dài hạn trong sản xuất, giúp ngành thủy sản tránh các phương thức ngắn hạn kém bền vững. Đặc biệt, theo thời gian, chứng nhận nuôi trồng thủy sản còn mở rộng phạm vi, giải quyết thêm các vấn đề xã hội và môi trường.
Đặc biệt, chứng nhận nuôi trồng thủy sản đang hỗ trợ khả năng thích ứng, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiêp thủy sản trong môi trường thương mại toàn cầu đầy biến động, trong đó có tác động từ các chính sách thuế quan. Trong bối cảnh đầy biến động của thị trường, chứng nhận nuôi trồng thủy sản trở thành một chiến lược để doanh nghiệp tạo những sản phẩm có sự khác biệt mà không dựa vào giá, đồng thời giúp đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, tạo thuận lợi cho đàm phán thương mại và có thể được miễn hoặc giảm thuế quan.
Ông Corey Peet - đại diện của Aqua Star, nhấn mạnh, mặc dù các chứng nhận thủy sản có thể chưa hoàn hảo, nhưng chúng sẽ tồn tại và tiếp tục phát triển. Chứng nhận thủy sản không chỉ là một nhãn hiệu bền vững để tiếp cận thị trường, mà còn trở thành một công cụ quan trọng để quản lý rủi ro. Người tiêu dùng ít quan tâm đến việc nhà sản xuất áp dụng chương trình chứng nhận nào, miễn là có sự đảm bảo rằng những rủi ro liên quan đến sản phẩm đã được kiểm soát. Điều này mở ra cánh cửa cho việc khám phá những cách thức quản lý rủi ro mới ngoài các cơ chế chứng nhận hiện có.