Báo cáo kỹ thuật mới đây của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) đã phân tích mối liên hệ giữa nuôi trồng thủy sản và tầm nhìn, mục tiêu của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal (KMGBF). Mục tiêu là bảo đảm hệ thống và cách phương thức nuôi trồng thủy sản bền vững được quan tâm đúng mực trong tiến trình thực hiện các mục tiêu đa dạng sinh học toàn cầu.
Báo cáo chỉ rõ hai nhóm tác động: rủi ro phát sinh từ hoạt động và quản lý nuôi trồng; những lợi ích sẽ có thể đạt được khi áp dụng mô hình bền vững. Hai cơ sở xác định các chỉ tiêu mà thủy sản đóng góp cho các mục tiêu KMGBF, góp phần bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái thủy sinh. Một nguyên tắc quan trọng của KMGBF là cách tiếp cận "toàn xã hội, xuyên suốt hệ thống quản lý nhà nước", huy động sự tham gia của tất cả các bên.

Mối quan hệ giữa thủy sản và đa dạng sinh học mang tính đa chiều, và cần được quan tâm đúng mực. Ảnh: BNNMT.
Vai trò của đa dạng sinh học thủy sinh đã được khẳng định từ năm 1992 trong các thỏa thuận quốc tế, khi Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) xác định các loài và hệ sinh thái biển là bộ phận không thể tách rời với đa dạng sinh học, cần được bảo vệ khẩn cấp. Tại Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs), SDG 14 hướng tới bảo vệ đại dương và khai thác bền vững tài nguyên biển, còn SDG 15 bao gồm cả thủy vực nội địa trong nỗ lực bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái trên cạn.
Năm 2010, CBD thông qua Các Mục tiêu Đa dạng sinh học Aichi với nhiều nội dung liên quan đến giảm khai thác quá mức, phục hồi loài suy giảm và tăng tính bền vững của thủy sản - nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, đến năm 2020, các mục tiêu này chưa đạt ở phạm vi toàn cầu. Từ thực tế đó, KMGBF ra đời, đặt ra mục tiêu mới đến năm 2030, tầm nhìn 2050, kế thừa nền tảng Aichi nhưng toàn diện và tham vọng hơn, coi thủy sản bền vững là một phần giải pháp trọng yếu.