Tại các huyện như Bát Xát, Bảo Yên, Bắc Hà..., ngày càng có nhiều hộ mạnh dạn phát triển các mô hình chăn nuôi, trồng trọt mới cho thu nhập cao, cải thiện cuộc sống.
Chăn nuôi ngựa, hướng đi bền vững cho vùng núi
Tận dụng địa hình đồi dốc, đồng cỏ tự nhiên và khí hậu mát mẻ, anh Lò Văn Chương ở thôn Cửa Cải, xã Mường Vi (huyện Bát Xát) đã chọn phát triển mô hình chăn nuôi ngựa một cách bài bản. Từ 1 - 2 con ngựa phục vụ vận chuyển, đến nay anh đã sở hữu gần 20 con, thu nhập ổn định gần 100 triệu đồng mỗi năm.

Mô hình nuôi ngựa cho thu nhập cao và ổn định, giúp người dân vươn lên làm giàu tại Bát Xát. Ảnh: Bích Hợp.
Điều làm nên sự khác biệt của anh Chương chính là tư duy đổi mới. Nhận thấy nhu cầu thị trường về ngựa giống và ngựa thồ tăng cao, anh đã không ngần ngại vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội để mở rộng quy mô chăn nuôi. Từ 3 con ngựa mẹ giống tốt được mua bằng vốn vay 100 triệu đồng, kết hợp với những con ngựa sẵn có, anh từng bước xây dựng mô hình nuôi ngựa hiệu quả nhờ kinh nghiệm bản thân và sự hỗ trợ kỹ thuật từ cán bộ khuyến nông.
Không chỉ tăng đàn, anh Chương còn chú trọng khâu chăm sóc và chọn giống. Anh trồng thêm cỏ voi, dự trữ rơm khô và xây dựng chế độ dinh dưỡng phù hợp cho ngựa, nhất là trong mùa đông. Việc tiêm phòng định kỳ, lựa chọn ngựa giống khỏe mạnh để duy trì chất lượng đàn cũng được anh thực hiện bài bản.

Tại Lào Cai, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp đã giúp người dân vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Bích Hợp.
Lợi thế của chăn nuôi ngựa là chi phí thức ăn thấp, ít rủi ro dịch bệnh nếu chăm sóc tốt, lại thích hợp với điều kiện đồi núi. Ngựa con được sinh ra khỏe mạnh, dễ nuôi, thị trường tiêu thụ ổn định. Ngoài bán ngựa thịt và ngựa giống, anh Chương còn có thêm thu nhập từ việc cho thuê ngựa thồ vào mùa vụ nông sản.
Hiệu quả từ mô hình chăn nuôi ngựa đã được địa phương ghi nhận và khuyến khích nhân rộng. Chính quyền xã Mường Vi đã tích cực tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật, tư vấn vay vốn ưu đãi cho người dân, từ đó tạo thành phong trào chăn nuôi ngựa quy mô nhỏ và vừa tại nhiều hộ dân. Nhiều người tìm đến anh Chương để học hỏi kinh nghiệm. Anh đã trở thành "đầu tàu" trong phong trào phát triển kinh tế từ chăn nuôi ở địa phương.
Trồng hoa hồng, biến đất lúa thành "vườn tiền"
Một mô hình hiệu quả không kém là câu của bà Nông Thị Tân, dân tộc Giáy ở tổ 12, thị trấn Bát Xát (Lào Cai). Từ những sào ruộng lúa kém hiệu quả, bà đã “lột xác” thành một vườn hoa hồng rực rỡ quanh năm, mang lại thu nhập ổn định, gấp nhiều lần so với trồng lúa.
Trước năm 2020, 5 sào ruộng chỉ giúp gia đình bà Tân đủ ăn, thậm chí còn phải bù lỗ nếu mất mùa. Tình trạng giá lúa bấp bênh, đầu ra không ổn định khiến bà trăn trở tìm hướng đi mới. Qua học hỏi từ các vùng chuyên canh hoa và lời khuyên từ những hộ trồng hoa đi trước, bà quyết định thử sức với giống hoa hồng nhập từ Vĩnh Phúc.

Mô hình biến đất lúa thành "vườn tiền" của bà Nông Thị Tân, dân tộc Giáy tại tổ 12, thị trấn Bát Xát (Lào Cai). Ảnh: Bích Hợp.
Khởi đầu không dễ dàng khi kỹ thuật trồng hoa hồng đòi hỏi sự tỉ mỉ, đầu tư công sức nhiều hơn trồng lúa. Bà và chồng đã tích cực tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, học hỏi thực tế ở các vùng trồng hoa lớn. Sau gần một năm, những nụ hoa đầu tiên nở rộ, vụ đầu tiên cho thu nhập 14 triệu đồng, một kết quả vượt ngoài mong đợi.
Không dừng lại ở đó, bà Tân tiếp tục mở rộng quy mô trồng hoa hồng thêm 3.000 gốc hoa hồng nhung - loại hoa được thị trường ưa chuộng bởi sắc đậm, bông to và mùi thơm đặc trưng. Từ năm thứ hai trở đi, vườn hoa phát triển tốt, cho hoa đều đặn quanh năm. Với giá bán trung bình 4.000 đồng/bông, mỗi năm gia đình bà thu về khoảng 60 triệu đồng sau khi trừ chi phí.
Bên cạnh kỹ thuật, bà Tân còn chứng tỏ khả năng quản lý vốn và chiến lược đầu tư hiệu quả. Vay 100 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội để khởi đầu, đến nay bà đã trả được hơn một nửa. Điều quan trọng là bà luôn chủ động tái đầu tư, cải tiến kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm cho các hộ khác trong vùng.
Mô hình của bà Tân không chỉ giúp gia đình thoát nghèo mà còn tạo cảm hứng cho nhiều hộ khác mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, là minh chứng sống động cho tư duy làm nông hiện đại, dám nghĩ, dám làm.
"Xã tỷ phú" giữa đại ngàn nhờ quế hữu cơ
Tháng 4/2025, tôi có dịp đặt chân đến Nậm Đét, một xã vùng cao của huyện Bắc Hà (Lào Cai). Trên chiếc xe máy, tôi bon bon qua những con đường bê tông uốn lượn giữa rừng quế bạt ngàn. Lang thang quanh xã, tôi không khỏi bất ngờ khi chứng kiến những ngôi nhà hai tầng khang trang, nhiều hộ còn có ô tô đậu trước cửa. Điều này khiến tôi tò mò bởi giữa vùng núi cao trên 1.000m, làm sao lại có được sự phồn thịnh như vậy?

Cây quế giúp người dân Nậm Đét trở thành những tỷ phú giữa đại ngàn. Ảnh: Viết Vinh.
Ông Đặng Xuân Phương, Chủ tịch UBND xã Nậm Đét chia sẻ, sự thay đổi ngoạn mục ấy đến từ cây quế. Trước đây Nậm Đét nghèo đói, giao thông cách trở, người dân chỉ trồng ngô, sắn, lúa nương nhưng không đủ ăn. Nhưng từ khi đưa cây quế vào trồng, vùng đất này như được "thay da đổi thịt". Từ vài hecta ban đầu, diện tích quế nay đã vượt 2.000 ha, trong đó gần 1.300 ha đạt chứng nhận hữu cơ.
Năm 2024, xã thu về hơn 45 tỷ đồng từ cây quế, nâng thu nhập bình quân lên 42 triệu đồng/người/năm, không còn hộ đói. Hơn 70% số hộ có nhà kiên cố, nhiều hộ còn có ô tô và tiền tiết kiệm.
Hiện Nậm Đét đang chuyển dịch cây quế sang hữu cơ với tổng diện tích gần 1.800 ha. Nhờ canh tác hữu cơ, giá quế cao hơn 20% so với bình thường, sản lượng trung bình mỗi năm lên tới 1.500 tấn quế tươi. Mỗi hecta mang về khoảng 600 triệu đồng từ vỏ quế, 150 triệu từ gỗ và 50 triệu từ lá, giúp mỗi hộ thu lãi từ 200 – 400 triệu đồng/năm.

Cây chè cũng là cây trồng cho giá trị cao tại Lào Cai. Ảnh: Bích Hợp.
Để đạt tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế như USDA Organic, người dân Nậm Đét tích cực tham gia các lớp tập huấn, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình trồng, chăm sóc, không dùng phân hóa học hay thuốc BVTV. Thói quen khai thác non cũng được thay đổi, chuyển sang thu hoạch hợp lý sau 10 - 30 năm, giúp tăng cả sản lượng và chất lượng quế.
Nhờ cây quế hữu cơ, Nậm Đét không chỉ thoát nghèo mà còn vươn lên trở thành biểu tượng làm giàu bền vững giữa núi rừng Tây Bắc.