Sức ép dồn dập từ khí hậu và thị trường
Ngành lâm nghiệp Việt Nam đang đứng trước những sức ép lớn. Biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, những cơn bão nhiệt đới, những đợt hạn hán, rét đậm, rét hại đã gây ra thiệt hại rừng. Đất rừng ở nhiều nơi bị suy thoái, xói mòn, sạt lở, khô hạn. Không chỉ hệ sinh thái rừng bị tổn thương, mà đời sống người dân sống nhờ rừng cũng bị ảnh hưởng.

NGƯT.GS.TS. Phạm Văn Điển - Hiệu trưởng trường Đại học Lâm nghiệp. Ảnh: ĐHLN.
Trên bình diện thương mại, các quy định mới như EUDR (Quy định chống mất rừng của EU), CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon), cùng hệ thống chứng chỉ xanh và yêu cầu truy xuất nguồn gốc ngày càng khắt khe, đang đặt ra thách thức trực diện cho xuất khẩu lâm sản. Việt Nam đã trở thành một trong 5 quốc gia xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất thế giới, nhưng chỉ cần một lô hàng không minh bạch cũng đủ ảnh hưởng đến uy tín toàn ngành. Thêm vào đó, hàng nước ngoài lợi dụng Việt Nam để lẩn tránh thuế khi tái xuất, và hàng giá rẻ nhập khẩu thiếu minh bạch vẫn gây sức ép lên doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, dân số hơn 100 triệu người, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng khiến nhu cầu đất đai cho nông nghiệp, hạ tầng, khu công nghiệp gia tăng, tạo áp lực cạnh tranh gay gắt với đất lâm nghiệp. Ở vùng cao, nơi chiếm tới trên 70% diện tích rừng, có hàng chục triệu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và nhiều người vẫn còn sinh kế khó khăn, phụ thuộc nhiều vào khai thác rừng.
Khi cái nghèo còn đó, áp lực sinh kế rất dễ biến thành áp lực phá rừng. Và hơn nữa, cam kết Net-Zero vào năm 2050 đang đặt lên vai ngành lâm nghiệp trách nhiệm lịch sử: phải vừa bảo vệ, vừa nâng cao chất lượng rừng, giảm phát thải toàn chuỗi và tham gia có hiệu quả vào thị trường carbon toàn cầu.
"Lá chắn xanh" và là tài sản quốc gia
Dù đối mặt nhiều thách thức, rừng vẫn là trụ cột an ninh sinh thái của đất nước. Với hơn 14,7 triệu ha, tỷ lệ che phủ đạt 42,03%, rừng Việt Nam là “lá chắn xanh” bảo vệ đất, nước và môi trường sống cho hàng triệu người. Rừng còn là nền tảng cho các dịch vụ hệ sinh thái, hấp thụ khí carbonic, giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Một góc rừng trên đỉnh Chiêu Lầu Thi, Hồ Thầu, Tuyên Quang. Ảnh: Khương Trung.
Không chỉ là tấm áo giáp sinh thái, rừng còn là tài sản kinh tế vô giá. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam đạt trên 17 tỷ USD, khẳng định vị thế trong nhóm 5 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Nếu rừng được quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn, tăng cường chế biến sâu, các chuỗi giá trị lâm sản được quản lý tốt hơn, rừng sẽ trở thành “mỏ vàng xanh” thực sự, là tài sản có khả năng sinh lợi lâu dài cho đất nước.
Rừng còn mang ý nghĩa ngoại giao chiến lược. Trên các diễn đàn toàn cầu về khí hậu và phát triển bền vững, rừng chính là “lá phiếu mềm” giúp Việt Nam khẳng định uy tín quốc tế. Với lợi thế hiếm có khi cùng sở hữu “rừng vàng, biển bạc”, Việt Nam có thể kết nối chiến lược từ rừng đầu nguồn tới rừng ngập mặn ven biển, hình thành hệ trục xanh đặc thù, tạo ra lợi thế phát triển bền vững khác biệt.
Tư duy và con đường phát triển lâm nghiệp mới
Ngành lâm nghiệp ngày nay không như xưa nữa. Đột phá không còn nằm ở việc mở rộng diện tích trồng rừng hay tăng sản lượng chế biến, mà nằm ở việc quản lý toàn bộ chuỗi giá trị. Từ nhập khẩu đến sản xuất, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu, mọi khâu đều phải minh bạch, thuận lợi và cùng có lợi.
Mô hình đồng quản lý giữa Nhà nước - doanh nghiệp - cộng đồng cần được thúc đẩy, để mọi chủ thể tham gia vào chuỗi giá trị đều được hưởng lợi và có trách nhiệm. Đây chính là “chìa khóa vàng” để loại bỏ kẽ hở thương mại, ngăn chặn hàng hóa bất hợp pháp, giữ vững uy tín quốc gia và nâng cao giá trị thật của rừng và lâm sản Việt Nam.
Một trụ cột của tương lai lâm nghiệp là chiến lược carbon và sản phẩm xanh. Không chỉ bán tín chỉ carbon, Việt Nam có thể sản xuất Biochar - than sinh học được coi là “vàng đen”, vừa lưu giữ carbon lâu dài, vừa cải tạo đất, vừa có giá cao. Bên cạnh đó là các sản phẩm có giá trị cao như hoá phẩm gỗ, tinh dầu, mỹ phẩm, dược liệu, vật liệu sinh học, bao bì xanh. Đây sẽ là nền tảng cho một ngành công nghiệp xanh từ rừng, đưa Việt Nam trở thành trung tâm kinh tế lâm nghiệp công nghệ cao trong khu vực.
Trong công nghiệp gỗ, Việt Nam đã có vị thế toàn cầu, nhưng còn thiếu thương hiệu sáng tạo. Tới đây, cần hình thành các trung tâm chế biến gỗ công nghệ cao, phát triển cụm ngành thiết kế - nội thất - sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ xanh, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải. Thị trường quốc tế cần biết đến gỗ Việt Nam không chỉ vì số lượng lớn, mà bởi chất lượng thiết kế, hàm lượng công nghệ và tính bền vững.
Con người là gốc của phát triển ngành nghề. Cần hỗ trợ xây dựng Trung tâm đào tạo lâm nghiệp nhiệt đới quốc tế, trở thành điểm đến của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đồng thời, chuyển đổi số của ngành cần được coi là trụ cột mới: cơ sở dữ liệu quốc gia về rừng - lâm sản - carbon - các chuỗi giá trị lâm nghiệp, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giám sát và quản lý, hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử toàn diện.
"Ngoại giao lâm nghiệp" cho phát triển lâm nghiệp bền vững
"Ngoại giao lâm nghiệp" chính là sức mạnh mềm mới của Việt Nam. Việc tham gia chủ động vào các mạng lưới lâm nghiệp ASEAN và toàn cầu, thu hút nguồn lực từ REDD+, Quỹ khí hậu xanh và các dự án tài chính xanh sẽ tạo thêm sức mạnh để bảo vệ và phát triển rừng. Rừng Việt Nam không chỉ là tài sản quốc gia, mà còn là “tấm hộ chiếu xanh” để đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới “vì hành tinh thêm xanh”.
Thay lời kết
Đầu tư cho lâm nghiệp chính là đầu tư cho tương lai xanh, cho an ninh sinh thái và sự phát triển bền vững của đất nước. Lâm nghiệp không chỉ là giữ rừng - giữ lá phổi xanh, mà còn là giữ sinh kế cho người dân, giữ thị trường cho doanh nghiệp và giữ vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Hiện nay, xét về các phương diện, Việt Nam mới thể hiện ở mức “phụ trợ” trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhưng, như đã chỉ ra ở trên, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm lâm nghiệp nhiệt đới có uy tín và có hiệu quả hàng đầu thế giới, là nơi hội tụ sinh kế bền vững cho hàng chục triệu đồng bào vùng cao, đồng thời nâng cao uy tín và quyền lực mềm quốc gia.