Tại “Hội thảo phổ biến, lấy ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật lĩnh vực nông nghiệp môi trường” sáng 18/9, đại diện các hội, hiệp hội, doanh nghiệp hoan nghênh dự thảo luật đã thể hiện tinh thần cải cách và tiếp cận khoa học, đồng thời, kiến nghị nhiều nội dung tới Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Hội thảo do Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Vụ Pháp chế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức sáng 18/9. Ảnh: Khương Trung.
Doanh nghiệp quốc tế quan tâm đến EPR và tính minh bạch
Dự thảo Luật nhận được nhiều ý kiến ủng hộ từ phía các hiệp hội, doanh nghiệp. Họ sẵn sàng đồng hành với Việt Nam trong phát triển kinh tế tuần hoàn và đề xuất xây dựng một khung pháp lý công bằng.
Góp ý với các nội dung của dự thảo, bà Lê Thị Hoài Thương - đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Việt Nam) cho biết, phía AmCham Việt Nam rất quan tâm tới vấn đề trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR) cùng với các quy định liên quan. Chính phủ cần có chính sách ưu đãi cho bao bì tái chế, bao bì nhựa PET tái chế (rPET), như miễn thực hiện nghĩa vụ EPR đối với bao bì làm từ nhựa PET tái chế (rPET), hoặc các vật liệu tái chế, thân thiện với môi trường khác nhằm khuyến khích chuyển đổi sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường.

Bà Lê Thị Hoài Thương, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Việt Nam) kiến nghị các nội dung xung quanh EPR. Ảnh: Khương Trung.
Bên cạnh đó, chi phí thực thi EPR cần được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp khi quyết toán thuế. Theo dự thảo Nghị định về Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đề xuất cho phép trừ khoản đóng góp vào Quỹ Bảo vệ môi trường khi xác định thu nhập chịu thuế. AmCham Việt Nam kiến nghị các khoản chi phí tổ chức tái chế sản phẩm, bao bì cần được xem xét áp dụng chính sách khấu trừ tương tự để tránh gây thêm gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp.
Cùng quan điểm, bà Lê Thị Hồng Nhi, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Anh quốc tại Việt Nam (BritCham) cho rằng, chi phí thực thi EPR cần được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp khi quyết toán thuế. Bên cạnh đó, cần bổ sung cơ chế sử dụng nguồn đóng góp tài chính EPR để tăng cường nguồn lực cải thiện cơ sở hạ tầng thu gom, tái chế - vấn đề đang là thách thức đối với Việt Nam.
“Mức đóng góp tài chính cần được điều chỉnh tương ứng với mức độ thân thiện môi trường của sản phẩm, bao bì. Điều này sẽ tạo động lực khuyến khích doanh nghiệp phát triển bao bì thân thiện môi trường”, bà Nhi chia sẻ.

Bà Lê Thị Hồng Nhi, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Anh quốc tại Việt Nam (BritCham) nhấn mạnh việc bổ sung cơ chế khuyến khích cho thiết kế sinh thái. Ảnh: Khương Trung.
Đại diện BritCham cũng nhấn mạnh việc bổ sung cơ chế cho thiết kế sinh thái, khuyến khích bao bì đơn vật liệu, đồng thời tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt để EPR gắn liền với thực tiễn thu gom, xử lý rác.
Ông Jonathan Sourintha, đại diện EuroCham Việt Nam bày tỏ hoan nghênh những tiến bộ trong dự thảo Luật nhưng cho rằng vẫn cần hoàn thiện thêm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Ông kiến nghị cần có chính sách ưu đãi rõ ràng cho bao bì nhựa tái chế, thậm chí miễn thực hiện EPR đối với loại bao bì này. Trường hợp chưa áp dụng ngay, nên quy định mức phí EPR thấp hơn so với bao bì từ nhựa nguyên sinh.
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tỷ lệ tái chế bắt buộc cần theo lộ trình thực tế, mỗi chu kỳ chỉ tăng 2–5% tùy năng lực và hạ tầng thu gom, tái chế hiện tại của Việt Nam. Chính phủ cũng nên có chính sách ưu đãi đầu tư vào hạ tầng tái chế và đổi mới bao bì.

Ông Jonathan Sourintha, đại diện EuroCham Việt Nam đề xuất cần có một lộ trình áp dụng tái chế bắt buộc tại Việt Nam. Ảnh: Khương Trung.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường có thể cân nhắc áp dụng lộ trình từng bước và thực tế để điều chỉnh tỷ lệ tái chế bắt buộc. Để tăng tính minh bạch cần thực hiện việc đánh giá định kỳ về mứcđộ sẵn sàng của hạ tầng cho công tác tái chế và tham vấn các bên liên quan để đảm bảo tính khả thi.
Một vấn đề mà các hiệp hội doanh nghiệp quốc tế quan tâm, theo dự thảo, nếu khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì doanh nghiệp trong khu đó sẽ không được phép mở rộng quy mô sản xuất, nâng công suất hoặc xây dựng nhà máy mới. Điều này sẽ hạn chế quyền phát triển của doanh nghiệp, mặc dù doanh nghiệp đã có giải pháp xử lý nước thải đạt chuẩn. Quy định này chỉ nên áp dụng bắt buộc với những khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nếu khu công nghiệp chưa có hệ thống này, cần cho phép doanh nghiệp vận hành hệ thống xử lý nước thải riêng đã được cơ quan thẩm quyền phê duyệt.
Quản lý dựa trên rủi ro thay vì nguy cơ
Một trong những điểm được các đại biểu đánh giá cao là việc kéo dài thời hạn công nhận lưu hành giống cây trồng. Bà Phạm Ngọc Lê, đại diện CropLife Việt Nam cho rằng, quy định mới về thời hạn 20 năm đối với giống ngắn ngày và 25 năm đối với giống lâu năm thay thế quy định trước đây sẽ tạo hành lang pháp lý ổn định, khuyến khích doanh nghiệp và viện nghiên cứu mạnh dạn đầu tư vào chọn tạo giống.

Bà Phạm Ngọc Lê, đại diện CropLife Việt Nam hoan nghênh quy định mới về kéo dài thời hạn lưu hành giống cây trồng. Ảnh: Khương Trung.
Cũng theo bà Lê, việc dự thảo bổ sung định nghĩa cụ thể hơn về sinh vật biến đổi gen trong Luật Đa dạng sinh học là bước tiến quan trọng, phù hợp với sự phát triển khoa học. Tuy nhiên, để áp dụng hiệu quả, cần rà soát các văn bản dưới luật, phân biệt rõ sinh vật biến đổi gen và sinh vật chỉnh sửa gen, từ đó có cách quản lý khoa học, hài hòa với thông lệ quốc tế.
Về quản lý thuốc bảo vệ thực vật, CropLife kiến nghị chuyển sang tiếp cận dựa trên “rủi ro” thay vì “nguy cơ”. Đây là điểm then chốt để các quyết định loại bỏ hay hạn chế sử dụng thuốc được căn cứ vào bằng chứng khoa học và khả năng kiểm soát. Bên cạnh đó, việc bỏ cụm từ “từ thuốc kỹ thuật” trong quy định đăng ký thuốc cũng cần được xem xét để tránh hiểu nhầm và phù hợp với thực tế.
Ở lĩnh vực phân bón, ông Hoàng Văn Tại, đại diện Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế hiện nay. Định nghĩa phân bón hiện hành chưa phân biệt rõ nguyên liệu thô chứa dinh dưỡng và sản phẩm đã qua xử lý có khả năng cung cấp trực tiếp cho cây trồng. Điều này tạo kẽ hở cho việc hợp thức hóa nguyên liệu chưa qua chế biến thành “phân bón”.
Để hệ thống pháp luật về phân bón thực sự khoa học và công bằng, cần quản lý dựa trên hàm lượng hoạt chất thay vì tên gọi, loại bỏ quy định gây rườm rà, và đặt an toàn môi trường, sức khỏe con người làm trung tâm.

Ông Hoàng Văn Tại, đại diện Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho rằng việc quản lý phân bón phải đặt an toàn môi trường, sức khỏe con người làm trung tâm. Ảnh: Khương Trung.
Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam lưu ý đến sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật. Theo ông, thức ăn chăn nuôi và thức ăn thủy sản cần quản lý theo cùng một nguyên tắc, thay vì tách biệt như hiện nay. Ông Dương cũng nhấn mạnh việc áp dụng quản lý theo rủi ro trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật sắp có hiệu lực. Không thể coi mọi vật tư nông nghiệp là nguy hiểm như nhau, mà cần phân nhóm và áp dụng chế độ hậu kiểm phù hợp.
Liên quan đến Luật Chăn nuôi, Chủ tịch Hội Chăn nuôi đề xuất không nên cấp phép riêng cho cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi xuất khẩu, vì hầu hết doanh nghiệp sản xuất chung một dây chuyền cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Thay vì tập trung thẩm quyền về Bộ, nên phân cấp cho địa phương để giảm gánh nặng thủ tục.

Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam nhấn mạnh cần có sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Ảnh: Khương Trung.
Hội thảo cũng ghi nhận nhiều ý kiến tâm huyết từ đại diện Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hội Thú y Việt Nam, Hội doanh nghiệp Sản xuất và Kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật Việt Nam, Hiệp hội chăn nuôi gia cầm Việt Nam, Hội Thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Trang trại và doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam... Nhìn chung, các ý kiến cho rằng dự thảo Luật sửa đổi lần này không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật, mà còn là cơ hội tạo “luồng gió mới” trong quản lý nông nghiệp và môi trường: hài hòa với chuẩn mực quốc tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khuyến khích tái chế và hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập. Với những vấn đề còn vướng mắc, đại diện các hội, hiệp hội, doanh nghiệp kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục hoàn thiện trong các Luật chuyên ngành trong thời gian tới.