Thuế thuốc lá được đánh giá là một trong những công cụ hiệu quả nhất để giảm tỷ lệ hút thuốc và hạn chế các tác hại liên quan đến thuốc lá. Trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị áp dụng chính sách tăng thuế thuốc lá, nhiều câu hỏi đặt ra về khả năng và thách thức khi thực thi biện pháp này.
Để làm rõ hơn vấn đề, phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với bà Hoàng Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số (CCIHP).

Bà Hoàng Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số (CCIHP). Ảnh: CCIHP.
Thưa bà, bà có thể chia sẻ bức tranh tổng quan về tình trạng sử dụng thuốc lá ở Việt Nam hiện nay?
Tình hình sử dụng thuốc lá tại Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức cho sức khỏe cộng đồng, đặc biệt trong môi trường gia đình, nơi phụ nữ và trẻ em dễ bị tổn thương bởi khói thuốc thụ động.
Theo báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tác hại thuốc lá, tỷ lệ nam giới trưởng thành hút thuốc lá đã giảm từ 47,4% năm 2010 xuống còn 38,9% năm 2023, tương đương mức giảm trung bình 0,5% mỗi năm . Tỷ lệ hút thuốc ở thanh thiếu niên cũng đã giảm, trong đó, ở nhóm từ 13 đến 17 tuổi đã giảm từ 5,36% năm 2013 xuống còn 2,78% năm 2019; ở nhóm 13 đến 15 tuổi giảm từ 2,5% (2014) xuống còn 1,9% (2022).
Tuy nhiên, việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá mới như thuốc lá điện tử đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong giới trẻ. Tỷ lệ học sinh từ 13-15 tuổi sử dụng thuốc lá điện tử đã tăng từ 3,5% năm 2022 lên 8% năm 2023. Đáng chú ý, ở nhóm tuổi 13-17, tỷ lệ này đã tăng từ 2,6% năm 2019 lên 8,1% năm 2023.

Việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá mới như thuốc lá điện tử đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong giới trẻ. Ảnh: Hoàng Hiền.
Về khói thuốc thụ động, mặc dù đã có sự cải thiện, nhưng tỷ lệ phơi nhiễm vẫn còn cao. Tại gia đình, tỷ lệ phơi nhiễm với khói thuốc thụ động đã giảm từ 73,1% năm 2010 xuống còn 45,6% năm 2023. Tuy nhiên, đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất của hút thuốc thụ động chính là phụ nữ và trẻ em trong gia đình. Hút thuốc lá thụ động vẫn là nguyên nhân gây ra khoảng 18.800 ca tử vong mỗi năm tại Việt Nam.
Những số liệu trên cho thấy, mặc dù đã đạt được một số tiến bộ trong việc giảm tỷ lệ hút thuốc lá truyền thống, Việt Nam vẫn đang đối mặt với những thách thức mới từ các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới và tình trạng phơi nhiễm khói thuốc trong gia đình. Điều này đòi hỏi cần có những chính sách mạnh mẽ và toàn diện hơn để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị rằng, để giảm tỷ lệ hút thuốc, thuế thuốc lá cần chiếm ít nhất 70-75% giá bán lẻ. Việc tăng thuế thuốc lá không chỉ giúp giảm tỷ lệ hút thuốc, đặc biệt trong nhóm người nghèo và thanh thiếu niên, mà còn tạo nguồn thu cho các chương trình y tế cộng đồng. Theo bà, liệu việc tăng mạnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá có phải là giải pháp khả thi và cần thiết? CCIHP đã từng có những nghiên cứu hoặc khuyến nghị chính sách cụ thể nào về vấn đề này không?
Hiện tại Quốc hội đang đề xuất hình thức thuế hỗn hợp với 2 lộ trình tăng thuế: lộ trình 1 là thuế 75% giá xuất xưởng và thuế tuyệt đối 2.000 đồng/bao vào năm 2027 và tăng dần đến 10.000 đồng/bao vào năm 2031; lộ trình 2 là 75% thuế xuất xưởng và thuế tuyệt đối 5.000 đồng/bao vào năm 2026 và tăng dần đến 15.000 đồng/bao vào năm 2030.
Có lẽ do có nhiều yếu tố khác nhau trong đó có các e ngại về kinh tế mà dường như các thảo luận gần đây nghiêng về lộ trình 1. Tuy nhiên, các chuyên gia công tác trong lĩnh vực phòng chống tác hại thuốc lá đều khẳng định, lộ trình 2 mới đủ mạnh để giảm việc sử dụng thuốc lá.
Việc tăng thuế theo khuyến nghị của WHO không chỉ cần thiết mà còn cấp thiết. Tháng 6 này Quốc hội sẽ bấm nút thông qua Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt với thuốc lá. Đây là cơ hội mà chúng ta phải nắm lấy vì nếu không làm đúng bây giờ, có khả năng phải khoảng 10 năm nữa chúng ta mới có cơ hội xem xét lại mức thuế. Như khuyến nghị của WHO, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá không chỉ tăng mà còn phải tăng đủ mạnh thì mới có hiệu quả. Việc tăng thuế cũng cần đi kèm với các chính sách khác để đảm bảo hiệu quả và sự tuân thủ của doanh nghiệp và người dân như kiểm soát buôn lậu thuốc lá, truyền thông nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và của người dân, hỗ trợ chuyển đổi mô hình sản xuất, cây trồng, hỗ trợ cai nghiện thuốc lá.
Đối với các lo ngại về việc tăng thuế thuốc lá làm ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, tăng buôn lậu, tôi muốn nhấn mạnh rằng thuế thuốc lá không đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là một giải pháp y tế công cộng, giúp giảm tiêu dùng thuốc lá, bảo vệ sức khỏe người dân, đặc biệt là giới trẻ và người nghèo - những nhóm dễ bị tổn thương nhất trước các chiến lược tiếp thị của ngành công nghiệp thuốc lá.
Tăng thuế thuốc lá là một giải pháp “win-win” về sức khỏe và kinh tế. Nguồn thuế hiện tại thu được từ thuốc lá chỉ bằng 1/4 đến 1/5 chi phí y tế cho các bệnh liên quan tới thuốc lá. Tăng thu thuế từ thuốc lá sẽ giúp tăng ngân sách cho y tế, đặc biệt là chi phí dự phòng cho các bệnh liên quan tới thuốc lá và các dự phòng khác về sức khỏe.
Việt Nam tiêu thụ 3,85 tỷ bao thuốc hàng năm nhưng chỉ thu được 0,76 tỷ USD tiền thuế. Trong khi Thái Lan tiêu thụ chỉ 1,68 tỷ bao thuốc hàng năm nhưng thu được 2,09 tỷ USD tiền thuế. Hiện tại đã có 41 quốc gia đạt mức thuế do WHO đưa ra và 18 quốc gia gần đạt mức này. Các nước láng giềng của chúng ta đã thực hiện thành công thì Việt Nam cũng có thể và phải làm được.
Trong nghiên cứu do Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số (CCIHP) thực hiện, trẻ em Việt Nam phải tiếp cận với thuốc lá từ khi còn rất bé. Ở các gia đình có người hút thuốc, trẻ em thấy ông, bố, chú, bác hút thuốc và coi điều đó là bình thường. Việc trẻ em thấy hành vi hút thuốc lá ở trong trường học càng khiến hành vi này dễ bị bình thường hóa.

Tỷ lệ đóng góp của các chính sách phòng chống tác hại thuốc lá trong việc giảm số người hút thuốc tại Thái Lan. Ảnh: Quỹ Phòng, chống Tác hại của Thuốc lá.
Tôi vẫn nhớ trong nghiên cứu do CCIHP thực hiện, có một em học sinh lớp 6 đã chia sẻ “Con rất buồn khi thấy thầy giáo hút thuốc. Mặc dù thầy không hút trong lớp mà ra cổng trường hút nhưng con và các bạn đều biết là thầy có hút thuốc. Việc này rất nguy hiểm vì nhiều bạn sẽ nghĩ việc hút thuốc là bình thường. Thậm chí, chúng con coi thầy như hình mẫu, việc thầy hút thuốc sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến thế giới quan của chúng con sau này”.
Thuốc lá rẻ và dễ mua khiến trẻ em có thể dùng tiền tiêu vặt để hút, thậm chí rủ bạn bè cùng thử. Khi giá tăng, nhiều người hút giảm hoặc bỏ thuốc, cho thấy giá cả là công cụ kiểm soát hiệu quả. Bên cạnh đó, truyền thông cần hạn chế hình ảnh hút thuốc và xây dựng hình mẫu nam tính, nữ tính tích cực – không khói thuốc – để định hướng giới trẻ đúng đắn hơn.
Có bằng chứng quốc tế nào cho thấy việc tăng thuế thực sự làm giảm tỷ lệ hút thuốc trong nhóm người nghèo và người trẻ, thưa bà?
Theo WHO, tăng giá thuốc lá 10% có thể giảm tiêu thụ tổng thể 4–6% ở các nước thu nhập trung bình – thấp, và tác động còn lớn hơn với giới trẻ: giảm 6–8%. Việc tăng thuế làm tăng giá thuốc lá, từ đó giảm sức mua, nhất là với người có thu nhập thấp và giới trẻ, những nhóm thường có khả năng tài chính hạn chế.
Tại Philippines, họ đã ban hành Đạo luật Cải cách Thuế Thuốc lá ("Sin Tax Law"), tăng mạnh thuế với thuốc lá vào năm 2012. Từ đó ghi nhận tỷ lệ hút thuốc trong giới trẻ (13–15 tuổi) giảm từ 27% (2011) còn 12% (2015). Cùng với đó, doanh thu thuế tăng và một phần được phân bổ cho chương trình bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Tương tư, tại Nam Phi, khi tăng giá thuốc lá gấp 2 lần (giai đoạn 1993–2009), tỷ lệ hút thuốc ở nam giới trưởng thành giảm từ 42% còn 27%; Tại Mexico, thuế tăng vào 2007–2010 dẫn đến giảm mạnh lượng tiêu thụ, đặc biệt ở nhóm có thu nhập thấp… Nhiều nghiên cứu đã cho thấy người nghèo có xu hướng bỏ thuốc nhanh hơn khi giá tăng, vì sức mua hạn chế. Điều này góp phần giảm bất bình đẳng y tế.
Nhiều quốc gia đã áp thuế thuốc lá ở mức rất cao, đạt trên 70% giá bán lẻ và ghi nhận kết quả tích cực. Bà nhận định như thế nào về khả năng áp dụng ngưỡng thuế này tại Việt Nam?
Khả năng áp dụng ngưỡng thuế này ở Việt Nam là hoàn toàn khả thi và cần được đặt ra như một mục tiêu chiến lược để giảm việc sử dụng thuốc lá. Việc nâng mức thuế lên 70% sẽ đòi hỏi một lộ trình cụ thể. Việc áp dụng ngưỡng thuế thuốc lá cao hơn ở Việt Nam là khả thi và cần thiết để giảm tiêu thụ. Hiện thuế thuốc lá mới chiếm 38–40% giá bán lẻ, thấp hơn mức khuyến nghị 70%. Quốc hội đang đề xuất hai lộ trình tăng thuế, trong đó lộ trình 2 – tăng mạnh hơn, lên đến 15.000 đồng/bao vào năm 2030.
Lộ trình này được các chuyên gia đánh giá là hiệu quả hơn trong việc giảm hành vi hút thuốc. Lộ trình này cũng có thời gian phù hợp để người dân và ngành sản xuất thích nghi, đồng thời Việt Nam đã có nền tảng truyền thông và luật pháp hỗ trợ thay đổi hành vi. Tuy nhiên, để việc tăng thuế đạt hiệu quả, cần siết chặt kiểm tra, kiểm soát buôn lậu và mở rộng tiếp cận các chương trình cai nghiện. Bài học từ Nam Phi cho thấy: nếu tăng thuế mà thiếu đồng bộ về truyền thông và kiểm soát buôn lậu, hiệu quả sẽ không bền vững.

Hình ảnh trong bài trình bày của các em học sinh trường THCS Dịch Vọng Hậu về tác hại của thuốc lá. Ảnh: CCIHP.
Theo bà, đâu là những rào cản lớn nhất khiến Việt Nam chưa thể mạnh tay tăng thuế thuốc lá? Là vấn đề kỹ thuật, chính trị hay sự vận động hành lang từ doanh nghiệp? Từ góc độ người làm nghiên cứu và triển khai dự án thực địa, bà nhận thấy chính sách nào hiện nay còn đang là 'vùng trống' chưa đủ bao phủ hoặc chưa được thực thi hiệu quả?
Cả 3 vấn đề trên đều có thể là những rào cản cho việc tăng thuế mạnh tay với thuốc lá ở Việt Nam và thực tế, đây không phải là những yếu tố tách rời mà có sự liên kết, đan xen lẫn nhau.
Việc tăng thuế thuốc lá ở Việt Nam đang đối mặt với 3 nhóm rào cản chính: kỹ thuật, chính trị và vận động hành lang - những yếu tố có sự đan xen lẫn nhau. Về kỹ thuật, Việt Nam hiện áp dụng thuế tỷ lệ trên giá xuất xưởng, vốn do doanh nghiệp tự kê khai, khiến mức thuế thu được thấp hơn thực tế. Hệ thống kiểm soát buôn lậu còn yếu, tạo tâm lý e ngại khi nâng thuế. Tuy nhiên, các trở ngại này có thể khắc phục nếu Việt Nam chuyển sang thuế tuyệt đối và đầu tư vào giám sát thị trường.
Về chính trị, ngành thuốc lá hiện đóng góp khoảng 17.000-18.000 tỷ đồng ngân sách mỗi năm, dẫn đến việc lợi ích kinh tế ngắn hạn lấn át ưu tiên sức khỏe cộng đồng. Nhưng nếu tính chi phí y tế do thuốc lá gây ra, giữ mức thuế thấp sẽ cản trở phát triển kinh tế chứ không phải là một lợi ích.
Ngoài ra, vận động hành lang từ doanh nghiệp thuốc lá vẫn tác động mạnh mẽ đến chính sách, với các luận điểm quen thuộc dù đã bị phản biện rõ ràng. Hiện Việt Nam vẫn thiếu cơ chế ràng buộc tăng thuế thuốc lá với các mục tiêu sức khỏe cộng đồng. Các chính sách hỗ trợ cai nghiện còn yếu, và hệ thống chống buôn lậu chưa hiệu quả. Dù vậy, nếu Quốc hội thông qua việc tăng thuế mạnh tay, đó sẽ là bước tiến quan trọng thể hiện cam kết chính trị vì sức khỏe người dân.
Hiện nay, chính sách thuế thuốc lá ở Việt Nam vẫn thiếu sự gắn kết với mục tiêu y tế công cộng. Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá chưa quy định cụ thể việc tăng thuế như một biện pháp bắt buộc nhằm giảm tiêu dùng. Việc tăng thuế vẫn chủ yếu nhìn dưới góc độ ngân sách, thay vì là chiến lược sức khỏe cộng đồng. Trong khi đó, chính sách hỗ trợ cai nghiện còn yếu, đặc biệt ở tuyến y tế cơ sở, khiến người nghèo dễ bị tổn thương nếu thuế tăng mà không có hỗ trợ kèm theo.
Việc kiểm soát buôn lậu thuốc lá cũng chưa hiệu quả, tạo kẽ hở cho ngành công nghiệp thuốc lá phản đối tăng thuế. Việt Nam cần đầu tư hệ thống truy xuất nguồn gốc và tăng cường phối hợp liên ngành.
Dù còn nhiều thách thức, tôi tin Quốc hội sẽ có quyết định mạnh mẽ trong việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá - như một cam kết vì sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế bền vững.
Trân trọng cảm ơn bà!