Chia sẻ tại Hội nghị Khoa học Quốc tế lần thứ 2 năm 2025 của Bệnh viện Lê Văn Thịnh, với chủ đề “Chuyển đổi số hướng đến xây dựng hệ thống y tế thông minh”, TS.BS Trần Chí Cường, Giám đốc Y khoa Hệ thống Đột quỵ Quốc tế S.I.S cho biết, Việt Nam đang đối mặt nhiều thách thức trong điều trị đột quỵ, song đã đạt được những bước tiến đáng kể nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại và mô hình chuyên sâu.
TS.BS Trần Chí Cường, Giám đốc Y khoa Hệ thống Đột quỵ Quốc tế S.I.S chia sẻ tại Hội nghị Khoa học Quốc tế lần thứ 2 năm 2025 của Bệnh viện Lê Văn Thịnh. Ảnh: HIU.
Công nghệ mở đường cho điều trị đột quỵ hiện đại
Bệnh viện S.I.S Cần Thơ là cơ sở đầu tiên trong nước được xây dựng theo mô hình “chăm sóc toàn diện đột quỵ”, với quy mô 10 tầng, 380 giường bệnh và hơn 800 nhân viên được đào tạo chuyên khoa. Bệnh viện trang bị đồng bộ các công nghệ tiên tiến như MRI 3 Tesla, robot can thiệp Corindus, hệ thống định vị BrainLab, phần mềm AI hỗ trợ chẩn đoán, giúp rút ngắn thời gian cấp cứu và tăng tỷ lệ cứu sống bệnh nhân.
TS.BS Trần Chí Cường cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng hệ thống chăm sóc đột quỵ ngang tầm quốc tế nếu đầu tư đúng hướng, tận dụng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chia sẻ về nghiên cứu kiểm soát LDL-C (cholesterol “xấu”) ở bệnh nhân đột quỵ do xơ vữa, bác sĩ Nguyễn Văn Phước, Khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện Lê Văn Thịnh cho biết, kết quả sau 3 tháng điều trị, tỷ lệ đạt mục tiêu LDL-C tăng từ 15,4% lên 61,8%, đặc biệt nhóm dùng statin cường độ cao đạt hiệu quả tốt hơn.
Bác sĩ Phước khuyến nghị, cần kiểm soát LDL-C sớm sau đột quỵ, ưu tiên statin liều cao kết hợp ezetimibe để đạt hiệu quả giảm mỡ máu mà vẫn đảm bảo an toàn cho gan.
Bác sĩ Bệnh viện Lê Văn Thịnh tư vấn cho người bệnh. Ảnh: BVCC.
Trong khi đó, BS Phạm Thị Kim Hoàng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh nhấn mạnh, thuốc bảo vệ tế bào thần kinh là hướng nghiên cứu tiềm năng giúp giảm tổn thương não và cải thiện phục hồi sau đột quỵ. Một số loại thuốc được chứng minh hiệu quả như Citicoline, Cerebrolysin, Cytoflavin và Gliatilin giúp cải thiện chức năng thần kinh, giảm tỷ lệ tàn phế và tăng khả năng hồi phục.
Bác sĩ Hoàng lưu ý, việc lựa chọn thuốc cần căn cứ vào tình trạng lâm sàng và kết hợp điều trị nền tảng để đạt hiệu quả tối ưu.
Ứng dụng mô hình đa chuyên khoa trong điều trị suy tim
BS.CKI Phan Khoa Thượng Triều, Khoa Nội tim mạch, lão khoa Bệnh viện Lê Văn Thịnh cho biết, suy tim hiện là gánh nặng y tế toàn cầu, đặc biệt tại châu Á. Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân suy tim cấp vẫn cao, với 4-6% tử vong trong thời gian nằm viện và một phần ba bệnh nhân tử vong hoặc tái nhập viện trong ba tháng đầu sau xuất viện. Ba mục tiêu chính trong điều trị suy tim là cải thiện tiên lượng sống, giảm tái nhập viện và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Bác sĩ Bệnh viện Lê Văn Thịnh siêu âm tim cho người bệnh. Ảnh: BVCC.
Các nghiên cứu quốc tế cho thấy, việc sử dụng đủ bốn nhóm thuốc trong “điều trị tứ trụ” giúp giảm rõ rệt tử vong và tái phát suy tim. Tuy nhiên, thực tế điều trị vẫn gặp nhiều rào cản như chi phí, tuân thủ thuốc và thiếu hệ thống theo dõi sau xuất viện.
Để khắc phục, Hiệp hội Tim mạch Châu Âu (ESC 2021) và Hoa Kỳ (ACC/AHA 2022) khuyến cáo, triển khai chương trình quản lý suy tim đa chuyên khoa, kết hợp bác sĩ, điều dưỡng, chuyên gia dinh dưỡng và phục hồi chức năng nhằm giúp bệnh nhân kiểm soát bệnh hiệu quả, giảm biến chứng và chi phí.
Tại Việt Nam, Bệnh viện Lê Văn Thịnh đã xây dựng chương trình quản lý suy tim toàn diện, gồm khám định kỳ, tối ưu hóa thuốc, tư vấn dinh dưỡng, giáo dục sức khỏe, cấp sổ tay bệnh nhân và hoạt động câu lạc bộ suy tim. Mô hình này giúp người bệnh chủ động theo dõi dấu hiệu trở nặng, tuân thủ điều trị và phục hồi thể lực tốt hơn.
Dữ liệu từ 304 bệnh nhân tham gia chương trình cho thấy, hiệu quả rõ rệt: tỷ lệ tái nhập viện giảm, bệnh nhân kiểm soát bệnh ổn định và cải thiện chất lượng cuộc sống. Kết quả này khẳng định hiệu quả của mô hình quản lý suy tim đa chuyên khoa.























