2025-2027: Cơ hội vàng thí điểm, hoàn thiện thể chế về OECM
Ngày 29/9, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) Việt Nam phối hợp với Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (NIAPP) tổ chức Hội thảo kỹ thuật: Các cơ hội thúc đẩy áp dụng Khu vực có các biện pháp bảo tồn hiệu quả khác (OECM) tại Việt Nam. Đây được coi là bước đi quan trọng để Việt Nam tận dụng thời cơ "vàng" đẩy nhanh tiến trình thí điểm và công nhận các OECM.

Ông Jake Brunner, Trưởng đại diện IUCN Việt Nam. Ảnh: Kiều Chi.
Phát biểu tại hội thảo, ông Jake Brunner, Trưởng đại diện IUCN Việt Nam, khẳng định: "OECM không phải là sáng kiến mới khi nhóm chuyên trách Ủy ban Thế giới về các Khu Bảo tồn của IUCN (WCPA) đã xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về OECM từ năm 2019, sau đó phiên bản tiếng Việt của hướng dẫn được công bố vào năm 2024. Tại Việt Nam, các tổ chức quốc tế như IUCN, GIZ, WWF, UNDP đã phối hợp nghiên cứu, triển khai hỗ trợ kỹ thuật và đánh giá thực trạng, tiềm năng của OECM.
Từ góc nhìn kỹ thuật của IUCN, Việt Nam không cần ban hành quy định mới về OECM, thay vào đó điều chỉnh trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, trọng tâm là thẩm định, công nhận và khuyến khích các mô hình quản lý tốt sẵn có trong lĩnh vực lâm nghiệp, thủy sản hay sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, mới khoảng 7% diện tích đất, 2% diện tích đại dương tại Việt Nam nằm trong hệ thống khu bảo tồn theo luật. Để đạt mục tiêu toàn cầu 30x30, ông Jake kiến nghị quốc gia có thể xem xét mở rộng diện tích bảo tồn hiệu quả lên 10% từ các hệ sinh thái trên cạn và dưới nước thông qua OECM. Đây chính là cơ hội để Việt Nam gia tăng diện tích bảo tồn mà không gây xáo trộn quy hoạch, đóng góp cho cam kết của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu (GBF) Côn Minh-Montreal vào năm 2030.

Ông Bùi Hải Nam, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (NIAPP). Ảnh: Kiều Chi.
Tại hội thảo, ông Bùi Hải Nam nhấn mạnh, OECM là cầu nối giữa bảo tồn và phát triển, là nền tảng của nông nghiệp sinh thái. Ở vùng ĐBSCL, các mô hình tôm - lúa, tôm - rừng; hay ở Tây Nguyên, các mô hình nông - lâm kết hợp, đều là các OECM tiềm năng mang lại lợi ích kinh tế cho nông dân và giá trị bảo tồn thiên nhiên.
OECM sẽ công nhận mô hình tích hợp sản xuất - bảo tồn, hỗ trợ quá trình chuyển đổi hệ thống lương thực - thực phẩm theo hướng bền vững, sản xuất an toàn, thân thiện với môi trường.
Theo ông Nguyễn Mạnh Hiệp, Điều phối viên đa dạng sinh học, IUCN Việt Nam: "Nếu mục tiêu chính của các vườn quốc gia và khu bảo tồn là bảo tồn đa dạng sinh học, thì OECM có thể được vận hành với nhiều mục tiêu, mục đích và loại hình quản trị mà vẫn đóng góp vào mục tiêu bảo tồn chung”. Điều này mở ra không gian linh hoạt hơn, ghi nhận sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, tôn giáo, tổ chức xã hội đến chính quyền địa phương trong công tác bảo tồn.

Ông Bùi Đức Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-MT) khẳng định Vụ sẵn sàng phối hợp cùng các tổ chức quốc tế hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết 30x30 (GBF). Ảnh: Kiều Chi.
Theo khuyến nghị từ WWF-Việt Nam, Trung ương cần sớm có báo cáo kịp thời và triển khai thí điểm không thể muộn hơn năm 2027, nếu không sẽ khó đảm bảo việc hoàn thành mục tiêu 30x30, trong khi Việt Nam đã có nhiều mô hình đạt tiêu chí.
Cộng đồng và địa phương đã sẵn sàng
Thực tế cho thấy, nhiều khu vực rừng tự nhiên, đất ngập nước, rừng sản xuất được giao cho cộng đồng, hay vùng đồng quản lý thủy sản tuy không phải là khu bảo tồn chính thức nhưng vẫn duy trì được giá trị đa dạng sinh học cao. Việc công nhận OECM cho những khu vực này này sẽ khuyến khích cộng đồng địa phương và các chủ thể quản trị duy trì thực hành bền vững, lồng ghép bảo tồn vào sản xuất và phát triển sinh kế.

OECM ghi nhận nỗ lực bảo tồn hiệu quả và lâu dài của cộng đồng địa phương, các tổ chức tôn giáo và cá nhân, vốn là một đặc trưng trong bảo tồn đa dạng sinh học của vùng. Ảnh: WWF-Việt Nam.
Các tổ chức quốc tế như IUCN, GIZ, WWF khuyến nghị Bộ NN-MT - cơ quan đầu mối thực hiện các cam kết của khung GBF, cần rà soát lại lộ trình xác định OECM để triển khai tại Việt Nam, tham khảo mô hình kinh nghiệm quốc tế thể chế hóa và lập bản đồ các bên liên quan đến OECM trên toàn quốc, đưa OECM vào Luật Đa dạng sinh học sửa đổi. Để thúc đẩy áp dụng, cần xây dựng đề án thí điểm OECM, đánh giá, đồng thời xây dựng quy trình công nhận trong nước, để có kết quả thẩm định vào năm 2026 và kiểm chứng vào năm 2027.
Các loại hình quản trị của OECM rất đa dạng từ nhà nước, cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng địa phương, người bản địa; và quản trị chung, tức quản trị bởi nhiều chủ thể có quyền lợi và bên liên quan cùng nhau. "OECM không yêu cầu thành lập khu bảo tồn mới mà chỉ nhận diện, công nhận và hỗ trợ các khu vực hiện có, do đó không tạo gánh nặng quản lý", đại diện WWF-Việt Nam chia sẻ.
Theo định nghĩa của IUCN và Công ước Đa dạng sinh học (CBD), OECM là những khu vực được xác định về mặt địa lý, tuy không nằm trong hệ thống khu bảo tồn chính thức nhưng được quản trị và quản lý nhằm đạt kết quả tích cực, bền vững về bảo tồn đa dạng sinh học tại chỗ. OECM đóng góp trực tiếp cho mục tiêu bảo tồn và quản lý hiệu quả ít nhất 30% diện tích đất liền, vùng nước nội địa, biển và vùng ven biển vào năm 2030 trong khuôn khổ khung GBF.
"OECM có thể trở thành "thương hiệu" nâng cao vị thế ngành nông nghiệp - môi trường Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo cơ hội phát triển sản phẩm giá trị cao mà vẫn bảo đảm mục tiêu bảo vệ thiên nhiên", ông Jake Brunner khẳng định.