Rừng Việt Nam, với diện tích hơn 14,8 triệu ha và độ che phủ 42%, từ lâu được ví như “lá phổi xanh” quốc gia. Ngoài giá trị phòng hộ, bảo tồn đa dạng sinh học, rừng còn đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ và lưu giữ carbon - một trong những nhiệm vụ then chốt khi Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Lượng carbon được rừng giữ lại chính là “tài sản” để quốc gia khai thác, chuyển hóa thành nguồn lực tài chính phục vụ bảo vệ và phát triển bền vững.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị trong chuyến công tác tại địa phương. Ảnh: Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm.
Trong nhiều năm, cộng đồng quốc tế luôn khuyến khích các quốc gia đang phát triển tham gia cơ chế REDD+ (giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn và tăng cường trữ lượng carbon). Việt Nam là một trong những nước đi sớm khi thiết lập hệ thống đo đạc, giám sát và thực hiện thí điểm ở nhiều vùng sinh thái.
Bước ngoặt là việc ký Thỏa thuận chi trả giảm phát thải (ERPA) với Ngân hàng Thế giới, qua đó vùng Bắc Trung bộ đã bán 10,3 triệu tín chỉ carbon, thu về hơn 51 triệu USD. Lần đầu tiên giá trị hấp thụ carbon của rừng Việt Nam được chuyển hóa thành nguồn tài chính thực tế, khẳng định khả năng tham gia vào thị trường toàn cầu.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị đánh giá, đây mới chỉ là khởi đầu. “Tính toán cho thấy Việt Nam còn có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ nữa. Với đơn giá 5 USD/tín chỉ, chúng ta có thể thu về khoảng 200 triệu USD, tương đương gần 5.000 tỷ đồng - một con số tương đương vốn đầu tư công hằng năm của nhiều lĩnh vực”, ông nhấn mạnh.
Theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, để tận dụng cơ hội này, Việt Nam phải sớm tự chủ trong công tác nghiên cứu, đánh giá và tiến tới thành lập tổ chức trong nước đủ năng lực cấp tín chỉ carbon theo thông lệ quốc tế, thay vì phụ thuộc vào các định chế bên ngoài.
Để chuẩn bị cho thị trường carbon, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, đồng thời xây dựng dự thảo Nghị định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Một loạt bước đi nền tảng được đánh giá sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc trao đổi, chuyển nhượng tín chỉ trong nước và quốc tế.

Ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam): "Cần gấp rút xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về tín chỉ carbon rừng". Ảnh: Bảo Thắng.
Tuy vậy, bên cạnh khung chính sách, để tham gia thị trường 3 yếu tố quan trọng cần có là: hệ thống đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV) đạt chuẩn quốc tế; tổ chức cấp tín chỉ độc lập, đủ uy tín để được công nhận và một thị trường đầu ra gắn với cơ chế chia sẻ lợi ích rõ ràng, bảo đảm người dân giữ rừng và doanh nghiệp trồng rừng đều có thu nhập chính đáng từ tín chỉ carbon.
Theo các chuyên gia, ERPA hiện mới áp dụng cho rừng tự nhiên, trong khi diện tích rừng trồng ở Việt Nam rất lớn, hơn 4,7 triệu ha, vẫn chưa được tính đến.
Ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), phân tích: “Đến năm 2030, Việt Nam vẫn đóng cửa rừng tự nhiên, khi đó nguồn cung tín chỉ không thể chỉ dựa vào loại rừng này. Rừng trồng mới là tiềm năng thực sự để gia tăng nguồn cung”.
Ông nhấn mạnh, muốn hiện thực hóa điều này, cần xây dựng phương pháp luận riêng cho rừng trồng, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp lâm nghiệp và người dân tham gia. Khi đó, thay vì chỉ dựa vào khai thác gỗ, rừng trồng có thể tạo ra dòng thu từ tín chỉ carbon, mở thêm kênh tài chính cho phát triển bền vững.
Việc đưa doanh nghiệp vào cuộc là yêu cầu tất yếu, bởi thị trường carbon không chỉ là câu chuyện bảo vệ môi trường mà còn là một thị trường tài chính với các chuẩn mực minh bạch, kiểm toán và giao dịch quốc tế. Nếu doanh nghiệp lâm nghiệp Việt Nam không tham gia, lợi thế có thể rơi vào tay các tổ chức nước ngoài.

Khảo sát thu thập thông tin cấp mã số vùng trồng tại tỉnh Tuyên Quang. Ảnh: Bảo Thắng.
Trong khi đó, với cơ chế chia sẻ lợi ích hợp lý, người dân sống nhờ rừng sẽ có thêm thu nhập, trực tiếp gắn bó với công tác bảo tồn - nguồn động lực để giảm áp lực chuyển đổi đất rừng, đồng thời bảo đảm tính bền vững của chính sách.
Minh chứng rõ nét cho hướng đi này là việc Việt Nam đã bắt đầu triển khai cấp mã số vùng trồng rừng nguyên liệu. Từ giữa năm 2024, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, với đầu mối là Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế lâm nghiệp đã trao những chứng nhận đầu tiên cho những diện tích rừng trồng tại tỉnh Tuyên Quang.
Ông Hoàng Liên Sơn, Giám đốc Trung tâm nhìn nhận, việc cấp mã số gắn với hệ thống quản lý iTwood không chỉ minh bạch hóa thông tin, giảm chi phí chuỗi cung ứng gỗ, mà còn tạo nền tảng số hóa dữ liệu rừng trồng trên phạm vi toàn quốc.
Đây là yêu cầu bắt buộc trong bối cảnh hội nhập, khi Việt Nam phải đáp ứng các quy định quốc tế như VPA/FLEGT hay mới nhất là EUDR. Mã số vùng trồng rừng, vì thế không chỉ thúc đẩy xuất khẩu gỗ và lâm sản, mà còn là tiền đề để gắn kết rừng trồng với thị trường tín chỉ carbon và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững trong tương lai.
Thực tiễn từ việc chi trả tín chỉ carbon tại Bắc Trung bộ cho thấy, nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng và bán tín chỉ carbon đã được một số cộng đồng sử dụng để đầu tư công trình hạ tầng thiết yếu như đường nội bản, nhà sinh hoạt văn hóa. Điều này chứng minh, tín chỉ carbon không chỉ mang lại giá trị quốc tế mà còn quay lại phục vụ trực tiếp đời sống người dân địa phương.
Sau hơn 80 năm phát triển, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã đi một chặng đường dài: Từ giai đoạn khai thác gỗ làm nguồn thu chủ lực, đến tái tạo và bảo tồn đa dạng sinh học và nay là tham gia thị trường carbon toàn cầu. Từng chút một, chức năng của rừng được mở rộng, tạo bước đi chiến lược để Việt Nam hội nhập vào dòng chảy kinh tế xanh, phát thải thấp và phát triển bền vững.