Trên những con đường đất quanh co của xã Lạc Dương (Lâm Đồng), Kơ Să Ra Đáp cầm chiếc kìm sắt, kiên nhẫn tháo dỡ từng chiếc bẫy thú giăng trong rừng. Công việc lặp đi lặp lại mỗi ngày, nhưng với thành viên sinh năm 1999 thuộc Đội tuần tra tháo gỡ bẫy (Ban quản lý Rừng phòng hộ đầu nguồn Đa Nhim), mỗi cái bẫy được gỡ bỏ là một sinh mạng động vật hoang dã được giữ lại.
“Có hôm đi cả ngày chỉ gỡ được một cái bẫy, nhưng nếu không làm, chỉ cần một con chồn, một con mang sa lưới cũng là mất mát cho rừng”, chàng thanh niên dân tộc K’Ho nói.

Kơ Să Ra Đáp bên chiếc bẫy tìm được trong rừng. Ảnh: Bảo Thắng.
Dù vậy, công việc gỡ bẫy không hề đơn giản. Nhiều bẫy được giăng sâu trong rừng rậm, cách xa khu dân cư hàng chục km, buộc Đáp cùng đồng đội phải đi bộ cả ngày mới tiếp cận được. Có khi, họ gặp phải bẫy dây thép to bản, đủ sức giữ chặt một con nai lớn, việc tháo gỡ phải mất hàng giờ. Những chuyến đi rừng còn tiềm ẩn nguy cơ từ thú dữ, rắn độc và cả thời tiết bất thường.
Chính Đáp cũng thừa nhận, có hôm mải lang thang "gỡ bẫy" rồi bất ngờ gặp mưa rừng. Nước lên nhanh khiến cả đoàn nháo nhào tìm chỗ cao ráo, rồi căng mấy mảnh nilon lên che tạm để giữ nhiệt. Mòn mỏi như vậy suốt hàng giờ, đến khi mưa ngớt mới dám bì bõm đi tuần tiếp.
Ở Đa Nhim, những “hiệp sĩ gỡ bẫy” như Đáp không chỉ đi tuần rừng mà còn vận động bà con từ bỏ săn bắt, báo tin khi phát hiện vi phạm. Một hành động nhỏ, có thể nhàm chán với nhiều người, nhưng lại là chỉ dấu cho thấy, hoạt động bảo tồn chỉ thực sự hiệu quả nếu cộng đồng cùng tham gia.
Bức tranh bảo tồn ở núi rừng Đa Nhim, bằng những đôi tay trần kiên trì, dần chuyển sang gam màu sáng. Thay vì chỉ trông chờ vào cấm đoán, cán bộ kiểm lâm kết hợp tuyên truyền, vận động cộng đồng cùng tham gia. Người dân không còn đặt bẫy săn bắt thú rừng hay khai thác gỗ như trước, mà tìm thêm nhiều nguồn sinh kế bền vững để chung sống hài hòa với thiên nhiên.
Câu chuyện Đa Nhim cho thấy rõ sự thay đổi trong cách tiếp cận của lâm nghiệp Việt Nam những năm vừa qua. Từ chỗ rừng được coi là nguồn tài nguyên để lấy gỗ, lấy đất, thì nay, rừng trở thành di sản thiên nhiên, là cơ sở cho phát triển bền vững và an ninh sinh thái.

Các kiểm lâm viên đi tuần tra rừng thường đi theo nhóm, từ 3-5 người. Ảnh: Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm.
Theo Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, hiện cả nước có hơn 170 khu rừng đặc dụng với tổng diện tích trên 2,3 triệu ha. Và bên cạnh những đôi chân, khối óc giữ rừng chưa bao giờ ngơi nghỉ như của Đáp, khoa học công nghệ đã san sẻ một phần gánh nặng.
Tính riêng Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, nơi Đáp cùng các thành viên đội tuần tra thường làm việc, khu rừng đặc dụng này vừa được cung cấp hơn 100 bẫy ảnh, nhằm theo dõi, ghi lại hình ảnh về động vật hoang dã cũng như hoạt động của con người tại các điểm đặt bẫy. Thông qua các hình ảnh thu thập, những người làm bảo tồn sẽ điều chỉnh phương thức tuần tra, hoạt động sao cho sát thực tiễn, đảm bảo hiệu quả cao nhất.
Mạng lưới bảo tồn rộng khắp của Việt Nam còn lan tới khu vực phía Bắc. Cúc Phương, vườn quốc gia đầu tiên thành lập năm 1962, là dấu mốc quan trọng trong tiến trình này. Trên diện tích hơn 22.000 ha, nơi đây lưu giữ hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới đất thấp với hàng nghìn loài động, thực vật, nhiều loài đặc hữu.
Cúc Phương cũng là nơi ra đời của các trung tâm cứu hộ linh trưởng, rùa, thú ăn thịt và tê tê - những đơn vị chuyên biệt cứu nguy cho động vật nguy cấp. Sự tồn tại của những trung tâm này cho thấy bảo tồn không chỉ dừng ở giữ rừng, mà còn trực tiếp cứu lấy từng loài đang bên bờ tuyệt chủng. Những vượn đen má vàng, voọc chà vá chân nâu được ghi nhận trong tự nhiên, hay sự hiện diện của voi, gấu, bò tót trong các vườn quốc gia khẳng định môi trường sống cho chúng vẫn còn được duy trì.

Những cá thể voi được bảo tồn tại Vườn quốc gia Yok Đôn. Ảnh: Y Siêm.
Ông Nguyễn Văn Chính, Giám đốc Vườn quốc gia Cúc Phương, cho rằng, thành công của bảo tồn ở Việt Nam là sự kết hợp giữa chính sách, cộng đồng và hợp tác quốc tế. “Chúng ta giữ rừng để bảo vệ sự sống của muôn loài, cũng là bảo vệ tương lai con người”, ông nhìn nhận.
Theo ông Chính, giai đoạn tới, bảo tồn cần gắn sâu hơn với kinh tế xanh. Các mô hình du lịch sinh thái, chi trả dịch vụ môi trường và thị trường carbon phải trở thành nguồn lực chủ đạo để duy trì rừng. Ứng dụng công nghệ như ảnh vệ tinh, bẫy ảnh tự động và trí tuệ nhân tạo đồng thời giúp giám sát hiệu quả, ngăn chặn sớm vi phạm.
“Bảo tồn chỉ bền vững khi người dân thực sự có lợi ích từ rừng và trở thành chủ thể trong quản lý”, ông nhấn mạnh.
Trong bức tranh toàn cầu về bảo tồn, Việt Nam tích cực tham gia nhiều sáng kiến. Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn 2050 đặt mục tiêu rõ ràng về diện tích rừng được bảo vệ. Đồng thời, Việt Nam ký Công ước Đa dạng sinh học, Công ước Ramsar và hưởng ứng Sáng kiến 30x30 nhằm bảo vệ ít nhất 30% diện tích đất và biển vào năm 2030. Những cam kết này giúp Việt Nam không chỉ nhận hỗ trợ mà còn được nhìn nhận như đối tác có trách nhiệm.
Từ những bước chân gỡ bẫy ở Đa Nhim đến hệ thống bảo tồn trải dài từ Bắc vào Nam, lâm nghiệp Việt Nam đã đi một chặng đường dài. Bức tranh về rừng không còn chỉ gắn với khai thác gỗ, duy trì độ che phủ hay kim ngạch xuất khẩu, mà đã mở rộng thành bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển kinh tế xanh và hội nhập quốc tế.
Đó là bước chuyển lớn, thể hiện vị thế mới của ngành lâm nghiệp trong kỷ nguyên phát triển bền vững.