LTS: Trong 80 năm hình thành và phát triển, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã đi qua chặng đường nhiều biến động: từ mất rừng nghiêm trọng sau chiến tranh đến phục hồi độ che phủ, từ khai thác tài nguyên sang xây dựng nền kinh tế gỗ hội nhập quốc tế, sáng tạo chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mở rộng mạng lưới bảo tồn đa dạng sinh học và nay hướng tới thị trường carbon toàn cầu.
Loạt bài "Hành trình giữ rừng và dựng tương lai xanh" phản ánh những dấu mốc tiêu biểu, cho thấy sự chuyển đổi căn bản của lâm nghiệp trong suốt 80 năm qua. Rừng không còn đơn thuần là nguồn tài nguyên, mà đã trở thành trụ cột phát triển bền vững, gắn liền với sinh kế, môi trường và cam kết khí hậu của quốc gia.
Hàng chục năm về trước, ở nhiều vùng trung du và miền núi Việt Nam, tầm mắt chỉ gặp đất trọc và đá sỏi. Những năm chiến tranh kéo dài, cộng thêm khai thác quá mức, đẩy đất nước đến nguy cơ “trắng rừng”. Núi đồi xói mòn, lũ quét liên tiếp tràn xuống bản làng, nhiều con sông trở nên đục đỏ vì phù sa. Người dân miền núi mất dần sinh kế, an ninh môi trường bị đe dọa nghiêm trọng.

Bác Hồ trồng cây đa tại xã Vật Lại, huyện Ba Vì (cũ) đầu năm 1969. Ảnh: TL.
Từ năm 1945 đến cuối thập niên 1980, rừng suy giảm liên tục. Số liệu lưu lại cho thấy diện tích che phủ từ mức trên 43% tụt xuống chỉ còn khoảng 27%. Khi đó, Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia mất rừng nhanh nhất thế giới. Những báo cáo gửi về đều dùng những từ ngữ mạnh: “khủng hoảng rừng”, “nguy cơ sa mạc hóa”.
Đổi mới đã mở ra một lối thoát. Chính sách giao đất, giao rừng cho hộ gia đình và cộng đồng, cùng chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, đã thay đổi cách người dân nhìn vào cánh rừng. Ở nhiều nơi, lần đầu tiên bà con được cầm trong tay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng. Cái nhìn với rừng đổi hẳn, từ “của chung vô chủ” thành tài sản gắn liền với miếng cơm, manh áo.
Năm 1990, diện tích rừng chỉ còn khoảng 9,1 triệu ha. 3 thập kỷ sau, con số đã vượt 14,7 triệu ha. Độ che phủ vươn lên 42%, quay về mức của thập niên 1940 dù dân số đã tăng gấp nhiều lần và đất nông nghiệp mở rộng. Những dự án quy mô lớn như Chương trình 327 và sau đó là trồng mới 5 triệu ha rừng (1998-2010) trở thành dấu mốc trong lịch sử ngành. Tới năm 2010, tỷ lệ che phủ đã vượt 40%, khép lại chuỗi dài suy giảm.
Không chỉ những nỗ lực trong nước, cộng đồng quốc tế cũng ghi nhận. Báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) nhiều lần nhấn mạnh, Việt Nam là điển hình phục hồi rừng, khi kết hợp được bảo vệ rừng tự nhiên với phát triển rừng trồng quy mô lớn.

Tết trồng cây đầu năm được các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước gìn giữ, xuyên suốt các năm qua. Ảnh: VGP.
Cùng thời gian, các tổ chức như WWF đã triển khai nhiều dự án ở Trung Trường Sơn, Tây Nguyên. Mô hình vườn ươm cộng đồng, chương trình CarBi giúp trồng hơn 10,7 triệu cây bản địa, xây dựng 13 vườn ươm, đồng thời giảm đáng kể khai thác và săn bắt trái phép.
Điều làm nên khác biệt nằm ở sự tham gia của người dân. Tới nay, khoảng 2,6 triệu hộ gia đình trực tiếp quản lý và chăm sóc rừng, nắm giữ hơn 27% diện tích toàn quốc. Ở Tây Bắc, nhiều bản làng từ bỏ tập quán đốt nương, chuyển sang giữ rừng để nhận khoán bảo vệ. Ở Tây Nguyên, mô hình cộng đồng bảo vệ rừng khộp, rừng thông giúp diện tích tự nhiên dần hồi sinh.
Một thước đo khác cũng quan trọng không kém, đó là chất lượng rừng. Sau nhiều năm chỉ nhắm tới tỷ lệ che phủ, ngành lâm nghiệp đã chuyển hướng sang rừng gỗ lớn, rừng đa loài, rừng đa mục đích. Tới năm 2024, hơn 500.000 ha đã đạt chứng chỉ quản lý bền vững - tấm “hộ chiếu xanh” để gỗ Việt Nam đi vào những thị trường khó tính.
Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, thành quả hôm nay là kết quả của một chuỗi chính sách cộng hưởng, từ giao đất giao rừng, đầu tư ngân sách, đến huy động doanh nghiệp và cộng đồng.

Cục trưởng Trần Quang Bảo: "Rừng không còn chỉ được nhìn như nguồn lợi khai thác". Ảnh: Bảo Thắng.
Ông nhấn mạnh: “Điều đáng quý là rừng không còn chỉ được nhìn như nguồn lợi khai thác. Nó trở thành nền tảng cho phát triển bền vững, gắn liền với cả môi trường lẫn sinh kế”.
Từ nền tảng đó, ngành lâm nghiệp bắt đầu bước vào những mục tiêu mới: gia tăng giá trị rừng, tham gia thị trường carbon toàn cầu, đóng góp vào cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. “Nếu chỉ coi rừng là cây xanh, chúng ta mới thấy một phần giá trị. Khi coi rừng là tài sản, giá trị ấy được nhân lên cả về kinh tế lẫn môi trường”, ông Bảo nói.
Những con số từ địa phương minh chứng rõ ràng. Tỉnh Yên Bái (cũ) sau 20 năm tăng thêm hơn 100.000 ha rừng, nhiều vùng đồi trọc phủ xanh bạt ngàn. Tỉnh Quảng Nam (cũ) phát triển rừng gỗ lớn, giúp thu nhập hộ dân tăng gấp hai, ba lần so với trồng rừng chu kỳ ngắn. Ở Tây Nguyên, chính sách khoán bảo vệ rừng đưa nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số có thêm nguồn thu ổn định.

Trồng rừng tại Vườn quốc gia Tà Đùng. Ảnh: Phạm Hoài.
Câu chuyện “Việt Nam từ mất rừng thành quốc gia tăng rừng” vì thế nhiều lần được nhắc tới tại các diễn đàn về khí hậu và đa dạng sinh học. Trong bản đồ toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đi ngược chiều suy thoái rừng, trở thành điểm tham chiếu cho nhiều nước đang phát triển.
8 thập kỷ nhìn lại, hành trình giữ rừng của Việt Nam có đầy mất mát và hồi sinh. Từ những sườn đồi loang lổ vết cháy đến những tán xanh kéo dài tới tận chân trời, rừng đã trở thành “tài sản xanh” của quốc gia.
Rừng bảo vệ môi trường, giữ nguồn nước, nuôi sống hàng triệu con người. Và quan trọng hơn, nó mở ra một cánh cửa để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, gắn rừng với kinh tế xanh, với thị trường carbon, với trách nhiệm toàn cầu.