Từ trên cao, dải đê sông Hồng uốn lượn giữa những làng quê trù phú, những tuyến kè ven biển Ninh Bình, Hưng Yên sáng lấp lánh dưới nắng như một tấm áo giáp khổng lồ ôm lấy đồng bằng. Ít ai hình dung được rằng, cách đây vài thập kỷ, đó từng là tuyến đầu thường xuyên phải chống chọi với thiên tai, với bão lũ, triều cường, con người phải “giằng co” từng mét đất trước sự nổi giận của thiên nhiên.
Hệ thống cống Cái Lớn - Cái Bé trở thành trung tâm điều tiết mặn - ngọt cho cả vùng hạ lưu sông Hậu, giúp hàng triệu nông dân tránh mất mùa vì xâm nhập mặn.
Hôm nay, khi mỗi cơn bão đi qua không còn mang theo cảnh tàn phá nặng nề, ngành thủy lợi và phòng chống thiên tai Việt Nam đã có thể tự hào không chỉ trị thủy mà đã thực sự biết sống cùng thiên nhiên.
80 năm trước, tư duy về phòng chống thiên tai ở Việt Nam chủ yếu dựa vào những biện pháp công trình như đắp đê, xây kè, ngăn nước. Hệ thống đê điều hình thành từ hàng nghìn năm lịch sử vẫn là nền tảng, nhưng bối cảnh biến đổi khí hậu, mưa lũ cực đoan và nước biển dâng đã buộc chúng ta phải thay đổi. Từ chỗ phòng là đối phó, nay đã trở thành phòng bằng chủ động thích ứng.
Những năm gần đây, hàng loạt công trình đê sông, đê biển được củng cố, kết hợp với hệ thống kênh trục, hồ chứa điều tiết, trạm bơm điện hiện đại để điều hòa dòng chảy. Bên cạnh những “lá chắn cứng”, Việt Nam đồng thời phát triển “lá chắn mềm” gồm hệ thống cảnh báo sớm, quy hoạch vùng rủi ro và nâng cao năng lực cộng đồng.
Tư duy ấy được cụ thể hóa bằng những bước đi rõ rệt. Hơn 9.000km đê sông và 3.000km đê biển được kiểm định, gia cố, gắn cảm biến quan trắc mực nước, sạt lở, mưa lớn. Các công trình hồ chứa đa mục tiêu như Tân Mỹ (Khánh Hòa), Cửa Đạt (Thanh Hóa), Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh) hay Tả Trạch (Huế) được vận hành không chỉ để tích nước mà còn để giảm lũ cho hạ du, cấp nước vào mùa khô, phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Ở miền Tây Nam Bộ, hệ thống cống Cái Lớn - Cái Bé trở thành trung tâm điều tiết mặn, ngọt cho cả vùng hạ lưu sông Hậu, giúp hàng triệu nông dân tránh mất mùa vì xâm nhập mặn.
Từ giữa những năm 2010, Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại hóa công tác phòng chống thiên tai. Thay vì xử lý từng sự cố riêng lẻ, các địa phương được kết nối bằng mạng lưới dữ liệu thời gian thực. Hơn 1.000 trạm khí tượng, thủy văn và cảnh báo mưa lớn, gió mạnh, sạt lở được lắp đặt, truyền dữ liệu liên tục về Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia.
Hệ thống bản đồ ngập lụt và dự báo lũ được số hóa theo lưu vực, giúp chính quyền có thể chủ động di dời dân trước 12 - 24 giờ khi bão mạnh tiến gần. Ở cấp cơ sở, các ứng dụng di động và tin nhắn SMS cảnh báo lũ, sạt lở được triển khai tới từng xã vùng nguy cơ cao, góp phần giảm thiểu thiệt hại trong các đợt mưa bão gần đây.
Một trong những chuyển biến lớn nhất là đưa cộng đồng trở thành trung tâm của phòng chống thiên tai. Hàng trăm nghìn người dân ở các tỉnh ven biển, miền núi, đồng bằng đã được tập huấn, diễn tập sơ tán, kỹ năng ứng phó khẩn cấp. Hàng nghìn “làng an toàn trước thiên tai” được công nhận, nơi người dân có bản đồ rủi ro, có đội ứng cứu tình nguyện, có kế hoạch tự bảo vệ trước khi chờ hỗ trợ.
Các chiến dịch truyền thông đa phương tiện, từ báo chí, truyền hình đến mạng xã hội giúp hình thành một “văn hóa phòng ngừa” rộng khắp. Nếu như những năm 1990, trung bình mỗi năm thiên tai cướp đi hàng nghìn sinh mạng thì 20 năm sau, con số ấy đã giảm hơn 70%.
Lực lượng hộ đê Ninh Bình kiểm tra vận hành cống tiêu thoát sau mưa lũ. Ảnh: Phạm Hiếu.
Bên cạnh nỗ lực trong nước, Việt Nam còn là điểm sáng hợp tác quốc tế về quản lý rủi ro thiên tai. Việc tham gia Khung hành động Hyogo 2005 - 2015 và Khung hành động Sendai 2015 - 2030 của Liên Hợp Quốc đã giúp chúng ta tiếp cận nhiều nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quốc tế. Các dự án của JICA (Nhật Bản), KOICA (Hàn Quốc) và UNDP hỗ trợ đã giúp xây dựng bản đồ rủi ro thiên tai, hệ thống cảnh báo sớm đa thiên tai và chương trình “Thành phố chống chịu” cho 20 đô thị ven biển.
Theo Báo cáo UNDRR 2023, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia ASEAN có năng lực giảm thiểu rủi ro thiên tai hàng đầu, đặc biệt trong các lĩnh vực dự báo bão, quản lý đê điều và thích ứng xâm nhập mặn.
Cùng với đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tích cực thực hiện chuyển đổi số trong phòng chống thiên tai. Các công trình đê, cống, hồ chứa được gắn mã định danh, quản lý bằng hệ thống dữ liệu không gian. Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng, tích hợp để dự báo sạt lở bờ sông, phân tích dữ liệu mưa cực đoan, xác định điểm có nguy cơ vỡ đê. Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai hiện điều hành toàn bộ mạng lưới qua bản đồ số GIS, giúp kiểm soát tình trạng đê, tràn, kè, cống trên phạm vi cả nước. Đó là bước tiến hiếm có trong khu vực.
Nhìn lại chặng đường 80 năm lịch sử, từ những cơn lũ năm 1971, 1986 khiến đồng bằng ngập trong nước, đến mùa bão 2020 khi miền Trung chịu hàng chục cơn bão liên tiếp nhưng hệ thống hồ chứa, đê điều vẫn an toàn. Sự khác biệt chính là năng lực phòng ngừa, ứng phó, điều hành. Mỗi đợt thiên tai đi qua ít thương vong hơn, nhanh phục hồi hơn. Đó chính là thước đo thành công của 80 xây dựng và cải thiện năng lực quốc gia về trị thủy.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp, phòng chống thiên tai ngày nay không chỉ là ứng phó mà là quản trị rủi ro, là việc đầu tư cho tương lai, bảo vệ sinh kế và sự phát triển bền vững. Định hướng ấy như đúc kết tinh thần của cả ngành, bắt đầu từ những người giữ đê mùa lũ đến các kỹ sư điều hành hồ chứa bằng dữ liệu vệ tinh.




























