‘Cánh tay’ đắc lực vận hành hồ chứa
Hiện nay, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận đang quản lý, khai thác 159 công trình thủy lợi gồm: 39 hồ chứa, 89 đập dâng, 21 hệ thống trạm bơm, hơn 2.000km kênh mương và trên 5.000 công trình trên kênh các loại.

Một hồ chứa thủy lợi do Công ty Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận quản lý. Ảnh: Kim Sơ.
Hằng năm, công ty này phục vụ tưới cho khoảng 100.000 ha lúa, hoa màu; 16.000 ha thanh long, cây ăn quả và 411 ha nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, cấp nước thô phục sinh hoạt và công nghiệp khoảng 45 triệu m3/năm.
Ông Nguyễn Anh Khoa, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận cho biết, tình hình biến đổi khí hậu đang tạo ra nhiều thách thức lớn cho công tác vận hành đập, hồ chứa nước, đặc biệt trong bối cảnh mưa lớn dồn dập, cực đoan và khó dự báo.
“Mưa lớn tập trung trong thời gian ngắn, phân bố không đều, khiến việc dự báo và tính toán lưu lượng nước về hồ trở nên khó khăn. Mưa lớn diện rộng khiến nhiều hồ cùng lúc phải xả lũ, gây xung đột trong điều tiết. Các đợt mưa cực đoan liên tiếp không đủ thời gian xả nước an toàn cho vùng hạ du, đôi lúc buộc hồ phải duy trì mực nước cao hơn thiết kế, làm tăng rủi ro tràn đỉnh hoặc sạt lở mái đập”, ông Khoa nêu những khó khăn cụ thể.
Ngoài những khó khăn trên, lũ quét kéo theo lượng trầm tích lớn làm giảm dung tích chứa hiệu dụng, cũng như khả năng tích nước của các đập và hồ chứa. Nhiều đập được thiết kế dựa trên tiêu chuẩn cũ, chưa tính đến kịch bản biến đổi khí hậu hiện nay. Trong khi việc nâng cấp các hồ chứa đòi hỏi nguồn kinh phí lớn và thời gian dài. Công nghệ giám sát tự động và dự báo chưa được áp dụng rộng rãi do hạn chế về tài chính và nhân lực.

Trạm đo mực nước trên lưu vực hồ chứa. Ảnh: Kim Sơ.
Theo ông Khoa, các hồ chứa do công ty quản lý đã được sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn đập như: Đá Bạc, Sông Lũy, Sông Quao, Ba Bàu, Tân Lập, Trà Tân. Các hồ chứa trên cũng đã được lắp đặt hệ thống scada bao gồm camera giám sát, trạm đo mưa tự động, mực nước hồ tự động và tự động tính lưu lượng đến hồ.
“Có thể nói việc lắp đặt các thiết bị trên đã giúp chúng tôi nắm bắt dự báo lũ đến các hồ chứa và trên lưu vực sông. Từ đó giúp cảnh báo sớm, chủ động điều tiết hồ, vừa đảm đảm an toàn công trình vừa giảm tối đa trình trạng ngập lụt cho vùng hạ du. Bên cạnh đó, việc lắp đặt thiết bị còn giúp công ty tăng cường năng lực giám sát vận hành, cảnh báo kịp thời cho người dân trong vùng và hạ du nhằm chủ động phương án phòng tránh an toàn; góp phần thực hiện hiệu quả trong công tác phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh”, ông Khoa khẳng định.
Ghi nhận của chúng tôi tại hồ Lòng Sông (huyện Tuy Phong) với diện tích lưu vực gần 400 km2, dung tích trên 37 triệu m3, lưu lượng xả lũ thiết kế trên 1.700m3/s. Trước đây khi chưa có các trạm quan trắc tự động, không có thông tin cảnh báo sớm nên khi nước lũ về đến hồ thì chủ hồ mới biết. Điều này khiến chủ hồ bị động trong việc điều tiết xả lũ, nhiều lúc phải xả tràn với lưu lượng lớn từ 500-600m3/s. Đặc biệt năm 2008, hồ này xả tràn lên đến 900 m3/s, gây ngập diện tích sản xuất khá lớn tại vùng hạ du.

Hồ Lòng Sông tại huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Ảnh: Kim Sơ.
Tuy nhiên năm 2020, hồ này được lắp một số trạm đo mưa tự động trên lưu vực thượng nguồn nên đã nắm được thông tin cảnh báo sớm về lượng nước về hồ. Từ đó, chủ hồ đã chủ động điều tiết xả trước để tăng dung tích phòng lũ, cũng như giảm được lưu lượng xả lũ còn từ 200 - 300m3/s, tránh được tình trạng ngập lụt diện tích sản xuất cho vùng hạ du.
Tương tự, hồ Sông Quao (Hàm Thuận Bắc) có diện tích lưu vực gần 300km2, dung tích trên 81 triệu m3, lưu lượng xả lũ thiết kế trên 1.000m3/s. Vào mùa mưa lũ, do không có thông tin cảnh báo sớm nên chủ hồ phải vận hành xả tràn lưu lượng bình quân từ 150 - 200 m3/s, có năm lên đến 300m3/s, gây ngập lớn diện tích sản xuất cho vùng hạ du.
Đến năm 2020, hồ được lắp một số trạm đo mưa tự động nên có được thông tin cảnh báo lượng nước về hồ sớm. Từ đó, đơn vị quản lý đã chủ động điều tiết xả trước để tăng dung tích phòng lũ, giảm lưu lượng xả lũ còn khoảng từ 80 - 120m3/s, hạn chế ngập lụt sản xuất vùng hạ du.
Sẽ tiếp tục lắp đặt công nghệ trên các hồ
Ngoài các hồ trên, hiện 2 hồ Cà Giây và Sông Móng cũng đang được thực hiện đầu tư nâng cấp và lắp đặt thiết hệ thống scada. Bên cạnh đó, Công ty TNHH Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận cũng đang triển khai thực hiện 2 dự án: Lắp đặt hệ thống thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng cho 19 hồ với 28 trạm đo mưa tự động và 12 trạm đo mực nước tự động; Lắp đặt hệ thống giám sát vận hành, thiết bị thông tin, cảnh báo an toàn đập và vùng hạ lưu đập, hồ chứa nước cho 18 hồ với 45 trạm cảnh báo tự động, 15 thiết bị kích hoạt khẩn cấp và 14 camera giám sát vận hành.

Nhân viên kiểm tra trạm đo mưa tự động trên lưu vực hồ chứa. Ảnh: Kim Sơ.
Lãnh đạo Công ty Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận đánh giá, hệ thống cảnh báo sớm cho phép công ty phản ứng kịp thời trước các đợt mưa cực đoan, tránh tình trạng bị động khi lũ về đột ngột, chủ động xả lũ theo kế hoạch (thay vì xả khẩn cấp) giúp bảo vệ hạ tầng hạ du, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản. Đặc biệt, công nghệ giúp giảm chi phí vận hành thủ công vì không cần cử người trực theo dõi mực nước, lượng mưa bằng mắt thường suốt 24/7.
Trước lợi tích trên, thời gian tới công ty sẽ tận dụng triệt để nguồn vốn của đơn vị cũng như tranh thủ nguồn vốn được UBND tỉnh, tổ chức quốc tế bố trí để tiếp tục lắp đặt thêm các trạm đo mưa lưu vực hồ chứa và các trạm cảnh báo mực nước về hồ, đập, kênh tự động.
Theo ông Khoa, chi phí lắp đặt hệ thống cảm biến, trạm đo mưa tự động, phần mềm phân tích đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt với đập, hồ chứa nước ở vùng sâu, vùng xa. Chẳng hạn, một hệ thống giám sát đập có thể tốn từ 50.000 - 200.000 USD tùy quy mô. Bên cạnh đó, việc vận hành hệ thống đòi hỏi kỹ sư thông thạo công nghệ, am hiểu thủy văn và phần mềm mô hình hóa.