Hoàn thiện mô hình sản xuất tuần hoàn
Trong bối cảnh ngành chăn nuôi và thủy sản tại nhiều quốc gia còn tồn tại hạn chế, SAAF ra đời để giải quyết hàng loạt thách thức như năng suất chưa cao, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tình trạng kháng kháng sinh gia tăng, hệ sinh thái trên cạn và dưới nước suy thoái, quản lý tài nguyên thiên nhiên chưa hiệu quả… Sáng kiến được đồng triển khai bởi Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI), Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) phối hợp với Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Sơn La.
Trong hội thảo tham vấn về dự án tại Sơn La ngày 21/8, ông Đặng Xuân Sinh - cán bộ điều phối chương trình SAAF ở Việt Nam - cho hay, dự án hướng tới cải thiện cuộc sống và phúc lợi cho người dân thông qua việc xây dựng chuỗi cung ứng thực phẩm bao trùm, lành mạnh, giàu dinh dưỡng nhưng đồng thời thân thiện với khí hậu và môi trường.

Ông Đặng Xuân Sinh, cán bộ điều phối chương trình SAAF ở Việt Nam hy vọng dự án sẽ lan tỏa đến nhiều hộ nông dân. Ảnh: Đức Bình.
Bên cạnh đó, việc tiếp cận thị trường của hộ sản xuất nhỏ vẫn gặp khó khăn, trong khi dữ liệu chưa đầy đủ và toàn diện khiến cho các chính sách và quyết định đầu tư thiếu cơ sở khoa học. Để ứng phó với những vấn đề này, SAAF tập trung hỗ trợ nông hộ và các cơ sở sản xuất nhỏ áp dụng đổi mới công nghệ để gia tăng năng suất và nâng cao giá trị dinh dưỡng của sản phẩm. Chương trình còn thúc đẩy việc áp dụng các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thiểu suy thoái tài nguyên và góp phần xây dựng hệ sinh thái cân bằng.
Một trong những trụ cột quan trọng của SAAF là phương pháp “Một sức khỏe” (One Health), chú trọng giảm nguy cơ dịch bệnh, đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, chương trình hướng tới việc xây dựng một thị trường công bằng, trong đó phụ nữ, thanh niên và các nhóm yếu thế có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị. Việc phát triển hệ thống dữ liệu và công nghệ số cũng được coi là yếu tố then chốt, giúp người sản xuất dễ dàng tiếp cận thông tin, từ đó tối ưu hóa quá trình quản lý và ra quyết định.
Xây dựng thị trường nhờ công nghệ số
TS Sinh mô tả thêm điểm nổi bật của SAAF là tính kết nối liên ngành. Chương trình được thiết kế để bổ trợ các sáng kiến toàn cầu khác như chế độ ăn và dinh dưỡng tốt hơn, hành động vì khí hậu hay nông nghiệp bền vững. Cách tiếp cận này giúp mở rộng tác động từ cấp hộ gia đình lên phạm vi quốc gia và quốc tế.

Chương trình Thực phẩm bền vững từ động vật và thủy sản (SAAF) sẽ tập trung vào mô hình tuần hoàn trong chăn nuôi bền vững. Ảnh: ILRI.
Một minh chứng tiêu biểu cho sự đổi mới của SAAF là mô hình kết hợp chăn nuôi, thủy sản và trồng trọt trong một hệ thống khép kín. Sự kết hợp này mang lại lợi ích nhiều mặt: tiết kiệm chi phí, tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có, giảm phát thải khí nhà kính và đồng thời cải thiện thu nhập. Phân từ chăn nuôi có thể được sử dụng cho nuôi trồng thủy sản hoặc bón cho cây trồng, trong khi phụ phẩm từ sản xuất nông nghiệp quay trở lại làm thức ăn cho vật nuôi. Đây là cách tiếp cận tuần hoàn, vừa hiệu quả vừa bền vững.
SAAF cũng đặt trọng tâm vào việc xây dựng thị trường công bằng và bao trùm. Thông qua đào tạo, kết nối thị trường và hỗ trợ vốn, phụ nữ và thanh niên được khuyến khích tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, từ sản xuất, chế biến cho tới tiêu thụ. Điều này vừa nâng cao vị thế của họ trong xã hội mà còn tạo ra động lực đổi mới mạnh mẽ, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển chung của hệ thống thực phẩm.
Với các công cụ hiện đại, nông dân có thể dễ dàng cập nhật thông tin về dịch bệnh, giá cả thị trường, đồng thời áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến mà SAAF đang xây dựng. Đây là nền tảng quan trọng để chuyển đổi từ phương thức sản xuất truyền thống sang nông nghiệp thông minh, hiện đại và bền vững hơn.
Chương trình SAAF được kỳ vọng trở thành động lực quan trọng trong quá trình chuyển đổi hệ thống thực phẩm toàn cầu. Ngoài tìm lời giải cho bài toán năng suất, dịch bệnh và môi trường, SAAF còn hướng đến việc cải thiện chế độ dinh dưỡng cho cộng đồng và tạo dựng sự công bằng trong chuỗi cung ứng thực phẩm.