Ngày 21/8, tại tỉnh Sơn La, Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), phối hợp với Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Sơn La đã tổ chức Hội thảo đồng thiết kế với các bên liên quan Chương trình Khoa học CGIAR về Thực phẩm bền vững từ Động vật và Thủy sản (SAAF).
Hội thảo có sự tham dự của các nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý, hợp tác xã, các nhà cung cấp dịch vụ và đầu vào chăn nuôi, cùng đại diện nông dân chăn nuôi, nhằm thảo luận về những định hướng phát triển mới cho ngành chăn nuôi trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Chưa khai thác hết những tiềm năng từ chăn nuôi
Sơn La là một trong những tỉnh có tiềm năng phát triển chăn nuôi lớn ở miền núi phía Bắc. Với địa hình rộng, nhiều đồng cỏ tự nhiên và khí hậu mát mẻ, nơi đây thuận lợi cho phát triển đại gia súc như bò sữa, bò thịt, trâu, lợn cùng với các loài gia cầm bản địa. Thông qua chương trình SAAF, các nhà khoa học mong muốn cùng địa phương xây dựng hệ thống chăn nuôi bền vững, tập trung vào ngành chăn nuôi bò thịt và lợn, vừa đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của người dân, vừa tạo ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Ông Trần Dũng Tiến, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Sơn La đánh giá cao những kết quả mà dự án SAPLING đem lại. Ảnh: Đức Bình.
Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Dũng Tiến - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Sơn La - cho biết, toàn tỉnh hiện có trên 107.000 con trâu, gần 390.000 con bò (trong đó bò sữa hơn 27.700 con), khoảng 700.000 con lợn và trên 8 triệu con gia cầm. Những năm gần đây, chăn nuôi gia súc, gia cầm đã trở thành hướng đi quan trọng, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho hàng chục nghìn hộ dân. Nhiều tiến bộ kỹ thuật trong lai tạo giống, chăm sóc và nuôi dưỡng đã được áp dụng, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi. Một số sản phẩm chăn nuôi của Sơn La đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường, đặc biệt là sữa Mộc Châu, thịt bò, thịt lợn và gà bản địa.
Tuy nhiên, ông Tiến cũng thẳng thắn chỉ ra nhiều thách thức. Sơn La là tỉnh miền núi, địa bàn rộng, địa hình đồi núi phức tạp, giao thông còn nhiều khó khăn. Thời tiết khắc nghiệt, mùa đông lạnh kéo dài, mùa hè nắng nóng gay gắt gây ảnh hưởng lớn đến năng suất chăn nuôi. Tập quán chăn thả rông vẫn phổ biến, trong khi mô hình chăn nuôi tập trung, quy mô lớn chưa nhiều. Sản xuất chủ yếu vẫn nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, dẫn tới chất lượng sản phẩm chưa đồng đều.
Bên cạnh đó, trình độ tiếp cận khoa học – kỹ thuật của nông dân giữa các vùng còn chênh lệch. Ở nhiều nơi, người dân chưa quen với các biện pháp quản lý hiện đại, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ từ Nhà nước, hạn chế trong việc chủ động kết nối với doanh nghiệp và hợp tác xã.
Đồng hành cùng nông dân thay đổi tập quán

Bà Karen Marshall bày tỏ niềm vui khi tiếp tục được vận hành dự án tại Sơn La. Ảnh: Đức Bình.
Bà Karen Marshall, Phó giám đốc chương trình SAAF toàn cầu (CGIAR) cho biết: “Chúng tôi hiện đang phát triển pha tiếp theo của dự án Chăn-hênh (2022-2025). Việt Nam là một trong 17 quốc gia trọng điểm của dự án. Pha tiếp theo này sẽ tiếp tục nhân rộng các can thiệp của dự án Chăn-hênh giúp đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm”.
Mục tiêu chính của hội thảo là chia sẻ những bài học kinh nghiệm đã đạt được từ chương trình SAPLING, đồng thời bước đầu xây dựng tầm nhìn chung, xác định kết quả mong đợi cũng như các phương pháp đổi mới của dự án SAAF. Điểm nhấn xuyên suốt là khẳng định nhu cầu, ưu tiên của các hộ chăn nuôi luôn phải được đặt ở vị trí trung tâm. Thông qua cách tiếp cận này, hội thảo xây dựng một “Lý thuyết thay đổi”, định hướng về các bước chuyển biến cần thiết trong nhận thức, hành vi và phương pháp sản xuất của nông dân.

Các chuyên gia thảo luận về mục tiêu, kế hoạch thực hiện dự án SAAF. Ảnh: Đức Bình.
Lắng nghe chính tiếng nói từ phía các xã và hộ nông dân, nắm được những mong muốn điều kiện hỗ trợ về con giống chất lượng, kỹ thuật chăm sóc, xử lý dịch bệnh, cũng như đầu ra ổn định cho sản phẩm.
Các chuyên gia từ SAAF cho rằng để thay đổi tập quán chăn nuôi, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: Trước hết là nâng cao nhận thức cho phụ nữ và nam giới nông dân về lợi ích của chăn nuôi an toàn, bền vững. Song song đó, phải tạo điều kiện để họ tiếp cận tín dụng, công nghệ và thị trường.
Kinh nghiệm của đội ngũ ILRI cho thấy, khi người chăn nuôi thấy rõ lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích môi trường, họ sẽ chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi.