Giữ đất, dựng đời nơi núi cao
Cuối tháng 10 nắng vàng như rót mật, chặng đường từ thành phố Điện Biên đi Si Pa Phìn mùa này rất thuận. Lẽ đó mà chúng tôi có mặt ở bản Nậm Chim, xã Si Pa Phìn- nơi có Vàng A Là, người đàn ông Mông trồng rừng, nuôi đại gia súc trở thành tỷ phú tương lai.
Trong cái nắng hanh hao vàng xuộm của buổi sáng mùa thu nền trời Điện Biên trong xanh cao vọi. Bìa rừng tiếng con khướu bạc má hót lanh lảnh, không gian thanh bình, tĩnh lặng đến độ người ta có thể cảm nhận được cả hơi thở của rừng và cái lạnh toát ra từ ruột núi.
Chúng tôi ngồi bên vệ đường tại ki - lô - mét số 35, điện thoại vài cuộc, đầu dây bên kia có đổ chuông nhưng không ai bắt máy. Tôi kiên nhẫn chờ bên kia gọi lại, nhưng không, vẫn lặng thinh. Sốt ruột, tôi cầm máy lên gọi cuộc nữa, chuông đổ hai hồi, đầu bên kia nói rất ngắn gọn: Alo, ai gọi mình đấy. Mình đây, Vàng A Là đây.
Chân dung Vàng A Là, bản Nậm Chim 1, xã Si Pa Phìn, tỉnh Điện Biên. Ảnh: Hoàng Châu.
Sau một hồi chỉ đường, cuối cùng chúng tôi cũng gặp được Vàng A Là (sinh năm 1980), người dân tộc Mông ở bản Nậm Chim, xã Si Pa Phìn, tỉnh Điện Biên; là người nông dân thực thụ thoát nghèo từ đôi bàn tay trắng và từ những vạt đồi trơ đất sỏi ruồi. A Là kể: “Năm 2004, mình không có gì trong tay ngoài người vợ bố mẹ cưới cho và 4 đứa con. Công việc chính của mình lúc ấy là chăn trâu và nuôi vợ con. Rất nhiều lần mình chăn trâu trên khoảng đất trống rộng 80ha của gia đình mà lòng thầm mơ ước trong nhà có vài bồ thóc, có vài con trâu để vợ con mình bớt khổ.
Đất bạc màu không trồng được ngô lúa, ruộng cấy lúa nước không có. Các con mình đang tuổi ăn tuổi lớn, nếu không nghĩ cách làm ăn thì đói. Năm đó, mình bắt đầu đưa trâu lên đám đất trống ấy dựng lán, làm hàng rào đất dựng trại. Mình đã vay mượn họ hàng mua mấy đôi dê, vài con bò, 2 đôi ngựa và 2 con trâu nhà sẵn có.
Dê nuôi tăng đàn rất nhanh, mỗi năm 2 lứa, nên chỉ trong vòng 3 năm đàn dê của mình đã tăng nhanh. Ngựa, trâu, bò mỗi năm 1 lứa, chúng đẻ ra mình chưa bán vội mà để gây đàn. Sau đàn dê tăng lên 25 con mình mới bán đi vài con để lấy tiền cho con ăn học, mua thêm bò giống, trâu giống.
Ngày ấy, vùng đồi này còn hoang vu, ít người dám làm kinh tế trang trại. Vàng A Là mạnh dạn xin chính quyền xã xác nhận sơ đồ khu vực chăn thả, vừa để bảo vệ đất đai tổ tiên để lại, vừa tránh tranh chấp khi mở rộng sản xuất. Cả vùng đồi, vợ chồng A Là ngày đêm giăng rào bằng thép gai, chôn cột B40: khu dốc nuôi dê, khu bằng hơn một chút dành cho trâu, bò, ngựa.
“Đất này ngày xưa là đất nhà mình. Mình phải đi xin xã xác nhận để sau này con cháu làm ăn không ai tranh chấp”, A Là nói giản dị. Bằng cách đó, người đàn ông Mông ấy đã “giữ đất” bằng ý nghĩ lao động, bằng niềm tin rằng: “Người Mông mình phải làm giàu trên đất cha ông”.
Trên diện tích hơn 80ha của gia đình Vàng A Là nuôi gần 300 con đại gia súc, trong đó có 50 con bò, 20 con trâu, 20 con ngựa và 130 con dê. Trang trại của A Là có lán canh, có người làm thuê trông coi quanh năm. Mùa cỏ mọc xanh, đàn vật nuôi thong dong ăn cỏ và uống nước suối. “Trâu, bò, ngựa, dê của mình chỉ ăn cỏ, uống nước lã, tối về cho ăn thêm chút muối để chúng nhớ chuồng, thế thôi”. A Là nói như kể chuyện thường ngày, hồn nhiên và thô mộc.
Vàng A Là bên đàn dê của mình. Ảnh: Hoàng Châu.
Mỗi năm, sau mùa chăn thả, A Là lại lùa đàn gia súc về gần nhà để vừa tích trữ rơm rạ, vừa bán xuất chuồng. “Khoảng cuối tháng 11 thì mình cho chúng nó về thăm nhà. Con nào to thì bán, con nào đẻ thì giữ lại. Đến tháng 4, cỏ trên trại mọc rồi thì lại đuổi lên núi”. Cứ thế, vòng quay của chăn thả và mùa vụ lặp đi lặp lại, A Là và vợ con không phải lo thức ăn cho đàn đại gia súc.
Nhờ mô hình ấy, mỗi năm gia đình Vàng A Là thu nhập khoảng 400–500 triệu đồng. Đó là con số không nhỏ đối với người dân vùng cao. A Là kể: “Người ta về tận đây mua, không phải mang đi đâu bán. Đồng ý bán con nào mình chỉ việc buộc lên xe.”
Anh tâm sự: “Mình được Nhà nước cho đi học lớp thú y sơ cấp, được cấp chứng nhận đấy. Nhờ đó mình cũng biết nhìn hiện tượng của con vật mà bắt bệnh để tiêm phòng. Tối chúng về chuồng, sáng sau thả đi, mình chỉ cần nhìn dấu vết phân, nước tiểu hoặc thấy nó đi chậm là biết ngay có con ốm. Nắm được bệnh rồi thì thuốc men cũng đơn giản”.
Khó khăn nhất theo lời A Là là những khi gặp địa hình hiểm trở, con trâu, con bò đi ăn cỏ sảy chân rơi xuống vực thì chịu. Mình chỉ biết xót thôi. Còn lại, bệnh tật hay thời tiết khắc nghiệt, mình đều biết cách vượt qua.
Mô hình kinh tế nông - lâm kết hợp
Vàng A Là không chỉ gây dựng mô hình chăn thả đại gia súc mà người đàn ông Mông mẫn cán ấy còn trồng rừng. Trên 6ha đất khác, A Là trồng trẩu, thông, quế và cây dược liệu. “Rừng trẩu có từ lâu, được chi trả dịch vụ môi trường rừng rồi. Còn rừng thông thì mình trồng khoảng 10 năm nay, giờ cây đã to. Quế mới trồng hai năm, cây cũng to bằng ống điếu rồi”, A Là cho hay.
A Là ngừng giây lát rồi nói như cắt nghĩa: “Việc trồng rừng với mình không chỉ để kiếm thêm thu nhập, mà còn là cách giữ đất, giữ nước. Đất trống nếu không trồng cây thì trôi hết, mất cả nương. Trồng cây, mai sau con cháu cón có cái mà hưởng.”
Hiện nay trang trại của Vàng A Là có hơn 100 con dê. Ảnh: Minh Duy.
Với người dân vùng cao như Vàng A Là, rừng không chỉ là tài nguyên, mà còn là mái nhà, là nơi lưu giữ sinh kế bền vững cho bà con. Trong bản Nậm Chim 1, ít người trồng rừng như A Là. “Vì trồng rừng chưa thấy lợi ngay, nhiều người bỏ cuộc. Nhưng mình nghĩ cây thông, cây quế 10 năm sau mới thấy giá trị. Làm nông nghiệp không thể nóng vội”, A Là trầm ngâm.
A Là kể: Những năm trước, người dân trong bản cũng học theo anh làm chuồng, vỗ béo trâu bò, rào đất làm trang trại nhỏ. Nhưng khi giá gia súc rớt, nhiều người nản lòng, bỏ cuộc. Chỉ riêng A Là kiên trì giữ đàn, chuyển hướng từ nuôi trâu, bò sang nuôi thêm dê, ngựa. “Năm 2020 - 2021 trâu bò mất giá, mình nuôi thêm ngựa, dê bán để có tiền cầm cự”, A Là kể.
Nhờ sự thích ứng linh hoạt ấy, Vàng A Là trở thành người tiên phong của bản với mô hình nông – lâm kết hợp, vừa chăn thả đại gia súc, vừa trồng rừng, trồng cây dược liệu; không chỉ tạo sinh kế cho gia đình mà còn góp phần giữ rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc. Trong cách nói dung dị của Vàng A Là, người ta nghe thấy cả triết lý sống của người vùng cao: “Làm gì cũng phải bền, không bỏ cuộc giữa chừng, giữ được đất, giữ được đàn, là giữ được cái ăn, cái mặc cho con.”
Vợ chồng Vàng A Là có 4 người con, đều học đại học. Người con gái lớn hiện là giáo viên, con trai thứ ba đang công tác trong ngành công an, còn hai người con khác đều tốt nghiệp các trường đại học lớn ở Hà Nội- đều nhờ mô hình kinh tế trang trại của gia đình.
Giây phút này ánh mắt Vàng A Là lấp lánh niềm vui phấn khích, anh bó gối gật đầu tán dương, mỉm cười hạnh phúc.




























