Từ tình yêu rừng đến sinh kế bền vững
Giữa vùng đất xanh thẳm Tà Đùng nơi rừng, suối và mây trời giao hòa như mạch sống, anh K’Dởnh, người đàn ông dân tộc Mạ ở Bon B'nơ, xã Tà Đùng, tỉnh Lâm Đồng vẫn ngày ngày cất bước vào rừng như một lẽ tự nhiên. Với anh, rừng không chỉ là nơi trú ngụ của muông thú, là nguồn nước cho buôn làng, mà còn là “ngôi nhà lớn” của chính mình. Anh thường nói: “Rừng nuôi tôi từ nhỏ, giờ tôi phải có trách nhiệm giữ rừng, như giữ cha mẹ vậy”.

Anh K’Dởnh, người đàn ông dân tộc Mạ ở xã Tà Đùng, tỉnh Lâm Đồng giữ rừng với tâm niệm "rừng nuôi tôi từ nhỏ, giờ tôi phải có trách nhiệm giữ rừng, như giữ cha mẹ vậy". Ảnh: Phạm Hoài.
Tình yêu ấy đã theo anh suốt hơn mười năm, kể từ năm 2012 khi Vườn quốc gia Tà Đùng giao khoán cho anh 15 ha rừng để quản lý, bảo vệ. Ngày ấy, anh K’Dởnh còn nhiều bỡ ngỡ với sổ sách, bản đồ, những quy định về ranh giới và tuần tra. Nhưng nhờ lời dạy của già làng K’Hô cùng sự hướng dẫn tận tình của cán bộ kiểm lâm, anh nhanh chóng quen việc.
“Trước đây, bà con nghĩ giữ rừng là việc của kiểm lâm. Nhưng giờ chúng tôi nhận khoán, có quyền lợi, có trách nhiệm rõ ràng. Giữ rừng cũng là giữ nhà, giữ nương, giữ suối cho con cháu”, anh K’Dởnh chia sẻ với ánh mắt lấp lánh niềm tự hào.
Nguồn thu khoảng 12 triệu đồng/năm từ chi trả dịch vụ môi trường rừng tuy không lớn, nhưng với người Mạ như anh K K’Dởnh đó là khoản động viên quý giá. Nhờ số tiền ấy, anh mua sách vở cho con, sửa lại căn bếp, đầu tư cho rẫy cà phê và mua giống trồng thêm một số cây ngắn ngày khác như bắp, đậu, khoai... Quan trọng hơn, anh hiểu rằng công sức giữ rừng của mình được ghi nhận, được trả công xứng đáng.

Từ bao đời nay, rừng Tà Đùng trong tâm thức người Mạ là nơi linh thiêng, gắn với tín ngưỡng và lịch sử cộng đồng. Vì thế, khi cùng lực lượng kiểm lâm tham gia bảo vệ, bà con không chỉ làm vì chính sách hay lợi ích kinh tế, mà còn làm từ niềm tự hào. Ảnh: Phạm Hoài.
Theo ông Trần Nam Thuần, Chủ tịch UBND xã Tà Đùng, trong những năm qua nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa Vườn quốc gia Tà Đùng với người dân trong việc giao khoán quản lý bảo vệ rừng nên các vụ vi phạm pháp luật liên quan đến lâm luật giảm rất nhiều. Đặc biệt, ý thực người dân cũng được nâng lên ngày một cao.
"Người dân đã ý thực được việc quản lý bảo vệ rừng là điều tiên quyết đối với sự sống hiện tại và tương lai. Ngoài ra, đời sống của nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thay đổi nhiều nhờ nhận được tiền từ dịch vụ môi trường rừng", ông Thuần chia sẻ.
Ông Khương Thanh Long, Giám đốc Vườn quốc gia Tà Đùng cho biết, hiện đơn vị đã giao khoán rừng cho 148 hộ dân tại các bon làng, với tổng diện tích gần 3.000 ha. Mỗi hộ nhận không quá 30 ha, trung bình được chi trả 800.000 đồng/ha/năm, tùy theo mức độ bảo vệ. Số tiền này trở thành nguồn thu ổn định, giúp người dân gắn bó hơn với rừng.
"Việc giao khoán cho người đồng bào tại chỗ góp phần rất lớn vào công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Các hộ dân như anh K’Dởnh luôn đồng hành cùng kiểm lâm trong quá trình tuần tra, phát hiện và ngăn chặn vi phạm lâm luật”, ông Long nói thêm.
Cũng theo ông Khương Thanh Long, nếu chỉ trông vào lực lượng kiểm lâm thì không thể bảo vệ trọn vẹn kho báu sinh học tại Vườn quốc gia Tà Đùng mà nhờ chính sự đồng hành của đồng bào Mạ, những người xem rừng là máu thịt là nhà đã tạo nên thành công hôm nay.

Lực lượng kiểm lâm hưỡng dẫn cho anh K’Dởnh cách xử lý những cây bị chết trong rừng. Ảnh: Phạm Hoài.
Khi người dân trở thành “cánh tay nối dài” của kiểm lâm
Thực tế cho thấy, chính sách giao khoán rừng không chỉ tạo thu nhập mà còn nâng cao trách nhiệm cộng đồng. Người Mạ vốn gắn bó với rừng bằng niềm tin tâm linh, nay thêm cơ chế hỗ trợ cụ thể, càng có lý do để giữ rừng. Bởi rừng không chỉ cho gỗ, cho nước, mà còn ban tặng măng rừng, nấm hương, thảo dược, và những dòng suối trong mát quanh năm.
Ông Trần Quốc Toàn, phụ trách Trạm Kiểm lâm số 1, Hạt Kiểm lâm Tà Đùng cho biết, nhờ người dân nhận khoán nhiều vụ khai thác gỗ trái phép được phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời. Chỉ tính riêng năm 2024, đã có hàng chục vụ xâm hại rừng được người dân báo tin, giúp giữ vững diện tích rừng hiện có.

Vườn quốc gia Tà Đùng hôm nay được ví như “viên ngọc xanh của Tây Nguyên”, không chỉ bởi cảnh quan hùng vĩ mà còn bởi giá trị sinh học độc đáo. Trên diện tích hơn 20.000 ha, Tà Đùng được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên cao nguyên”, với hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ nổi lên giữa mặt hồ xanh biếc. Ảnh: Phạm Hoài.
Theo thống kê của Vườn quốc gia Tà Đùng, sau hơn 10 năm triển khai giao khoán, diện tích rừng cơ bản được giữ vững, tình trạng xâm hại giảm mạnh. Ở nhiều bon làng, bà con còn tự nguyện lập tổ tuần tra, phối hợp chặt chẽ với kiểm lâm. Giờ đây, việc bảo vệ rừng đã trở thành một nghề song hành cùng nông nghiệp là sinh kế bền vững gắn với truyền thống và niềm tin của đồng bào.
Giữa mênh mang đại ngàn, câu chuyện của anh K’Dởnh chỉ là một trong nhiều mảnh ghép đẹp của người Mạ, nơi đây những con người coi rừng như mái nhà chung, nơi gửi gắm niềm tin và sự sống. Chính nhờ những chính sách giao khoán kịp thời và thiết thực ấy mà hôm nay những người giữ rừng như anh K’Dởnh càng thêm quyết tâm gắn bó, để màu xanh Tà Đùng mãi vững bền cùng thời gian.
Vườn quốc gia Tà Đùng hôm nay được ví như “viên ngọc xanh của Tây Nguyên”, không chỉ bởi cảnh quan hùng vĩ mà còn bởi giá trị sinh học độc đáo. Trên diện tích hơn 20.000 ha, Tà Đùng được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên cao nguyên”, với hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ nổi lên giữa mặt hồ.