Ít ai biết rằng, từ những hạt giống đầu tiên được gieo nơi đây hơn ba thập kỷ trước, một cuộc cách mạng âm thầm đã nảy nở, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có rừng trồng phát triển nhanh hàng đầu thế giới. Ở trung tâm của hành trình ấy có một nhà khoa học suốt đời theo đuổi những cánh rừng, ông đã biến những đồi đất cằn thành tán xanh bền bỉ. Đó là giáo sư- tiến sĩ Lê Đình Khả.
GS.TS Lê Đình Khả được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về giống keo lai năm 2000. Ảnh: Bảo Thắng.
Những hạt giống đầu tiên
Sinh ra trên vùng đất nghèo miền Trung, cậu bé Khả những năm 1940 sớm mồ côi mẹ, ngày chăn trâu, đêm học dưới ánh đèn dầu, giấy vở phải ngâm nước vôi cho khỏi nhòe. Từ những năm tháng khốn khó ấy, trong ông đã nảy mầm một niềm tin giản dị. Nếu có thể hồi sinh một mảnh đất khô cằn, con người cũng có thể gieo tri thức để đổi thay quê hương.
Con đường ấy bắt đầu khi ông ra Hà Nội học Đại học Nông Lâm, rồi được giữ lại giảng dạy. Năm 1963, ông được Bộ Nông nghiệp cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh ngành Di truyền học thực vật, người Việt đầu tiên bước vào lĩnh vực tưởng xa xôi ấy, nhưng lại chính là nền tảng giúp ngành lâm nghiệp sau này tìm được hướng đi.
Trở về nước, ông giảng dạy tại Trường Đại học Lâm nghiệp. Khi đó, rừng Việt Nam bị tàn phá nặng nề, đất trống đồi trọc phủ khắp miền Trung và Bắc bộ. Các loài bản địa như lim, táu, dầu… mất hàng chục năm mới thành gỗ lớn, còn cây nhập nội như keo, bạch đàn tuy lớn nhanh nhưng khó thích nghi, dễ sâu bệnh, gỗ lại kém chất lượng.
Trong khi nhiều nước đã thử nghiệm lai keo từ những năm 1970 mà không thành, GS Lê Đình Khả chọn một con đường khác: bắt đầu từ bản chất di truyền. Ông không lai ngẫu nhiên, không chờ tự nhiên ban phát, mà xác định từng cặp bố mẹ, theo dõi sự tương hợp sinh sản giữa keo tai tượng (Acacia mangium) và keo lá tràm (Acacia auriculiformis), rồi chọn ra những cây con có ưu thế lai vượt trội.
Ở thời điểm Việt Nam còn nghèo, chưa có thiết bị hiện đại, ông và đồng nghiệp phải tự chế dụng cụ đo sinh trưởng, tự ươm, tự cắt hom trong phòng thí nghiệm nhỏ ở Ba Vì. Ông thường nói với học trò: “Không có phòng lạnh vẫn có thể giữ gen bằng tình yêu cây rừng”.
Từ hàng nghìn tổ hợp lai, nhóm của ông đã chọn ra những dòng keo lai đầu tiên - BV10, BV16, BV32… có năng suất cao gấp đôi keo thuần, thân thẳng, gỗ tốt, chịu đất chua và khô hạn. Năm 1990, những rừng keo đầu tiên được trồng thử ở miền Trung, chỉ sau 5 năm đã tạo nên bước ngoặt cho toàn ngành, mở ra kỷ nguyên của rừng trồng Việt Nam.
Nếu những người đi trước phải bỏ cuộc nghiên cứu giữa chừng vì không thể kiểm soát thế hệ con lai, thì Việt Nam lại thành công nhờ kết hợp giữa tri thức di truyền học và kinh nghiệm thực địa. Từ một nước nhập khẩu gỗ, Việt Nam vươn mình trở thành quốc gia đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu sản phẩm gỗ. Trong mỗi tấm ván, mỗi kiện dăm gỗ hôm nay đều có dấu ấn của “người gieo giống” thầm lặng ấy.
GS.TS Lê Đình Khả trân trọng từng kỷ vật trong suốt nửa thế kỷ gắn bó với lâm nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng.
Từ ký ức của đất đến tri thức ngày mai
Công việc chọn giống cây rừng là một hành trình của kiên nhẫn. Mỗi kết quả phải chờ ít nhất 10-15 năm để kiểm chứng. Nhiều loài cây mà GS Khả khởi xướng từ thập niên 1980, như keo lai, bạch đàn lai, thông caribe, thông mỡ, thông nhựa cao… đến đầu thế kỷ XXI mới ra hoa kết trái.
Ông thường nói: “Cây rừng cũng có ký ức. Mình gieo hôm nay, nhưng nó sẽ trả lời sau một thế hệ”. Bởi thế, trong các thí nghiệm của ông, không có chỗ cho sự vội vàng. Ông xem mỗi hạt giống là một sinh thể mang trí nhớ của đất, của người, và của thời gian.
Những năm 1990, khi thế giới bắt đầu nói nhiều về công nghệ sinh học, ông lại tiếp tục tiên phong đưa nuôi cấy mô và nhân giống vô tính vào cây lâm nghiệp Việt Nam. Ông thành lập Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng, rồi Viện Cải thiện giống và Phát triển giống lâm sản. Hàng trăm kỹ sư, nhà nghiên cứu trẻ được ông dìu dắt, nhiều người sau này trở thành chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực chọn giống, bảo tồn nguồn gen.
Trong suốt hơn nửa thế kỷ, GS Khả không chỉ gieo cây mà còn gieo tri thức. Ông viết hơn 15 đầu sách, 180 bài báo khoa học, xây dựng giáo trình đầu tiên về “Di truyền và chọn giống cây rừng” cho Việt Nam. Ở tuổi 80, ông vẫn đọc, vẫn chỉnh từng dòng tài liệu, vẫn trăn trở vì “giống cây chưa ổn định, thì rừng chưa thể bền vững”.
Ông nhận nhiều huân chương, giải thưởng, từ Huân chương Lao động hạng Nhì, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học - Công nghệ, đến Bằng khen của các tổ chức quốc tế như IUFRO, CSIRO, ACIAR. Nhưng với ông, phần thưởng lớn nhất là được thấy những đồi trọc năm xưa phủ xanh trở lại. Mỗi mùa mưa, khi về lại Ba Vì, ông vẫn thường đứng lặng nhìn rừng keo ngả bóng, rồi nói nhỏ: “Cây đã lớn, đất đã hồi sinh”.
Quyết định được cử đi nghiên cứu sinh tại Liên Xô vẫn được GS-TS Lê Đình Khả gìn giữ. Ảnh: Bảo Thắng.
Những người từng làm việc cùng ông kể rằng, dù tuổi cao, ông vẫn giữ thói quen đi kiểm tra từng ô thí nghiệm, ghi chép tỉ mỉ từng thay đổi nhỏ của cây. Có lần, ông nói với học trò: “Cái khó nhất của người làm khoa học là giữ được niềm tin trong những năm tháng chờ đợi. Nhưng khi một hạt giống bật mầm, mình hiểu, sự kiên nhẫn cũng là một dạng của tình yêu”.
Trong một bài thơ tự sự viết năm 2006, ông tóm gọn cuộc đời mình bằng những câu dung dị: “Năm châu bốn biển bao nơi/Từng qua cuộc sống của thời hiển vinh/Từng lên đỉnh núi Rùng Rình/Từng tìm tổ ấm trong tình ổ rơm”. Đó không chỉ là lời tự bạch của một đời người, mà còn là cách ông nhìn khoa học: bình dị mà kiên cường.
Ngày nay, khi Việt Nam bàn đến carbon rừng, giảm phát thải hay kinh tế xanh, người ta vẫn nhắc đến GS Khả như một biểu tượng của thời kỳ gieo hạt đầu tiên, khi khoa học chưa có phòng thí nghiệm khang trang, nhưng có những con người tin vào sức mạnh của tri thức và lòng yêu nước.
Ông từng nói: “Trồng rừng không phải để có gỗ, mà để trả nợ cho đất. Đất hồi sinh, con người cũng hồi sinh”. Và có lẽ, chính vì thế, những khu rừng ông từng gieo không chỉ là rừng cây, mà là rừng ký ức, rừng tri thức, rừng của niềm tin.
Chứng kiến bao đổi thay của lịch sử ngành lâm nghiệp, GS Lê Đình Khả chính là hình ảnh của cả một ngành lâm nghiệp Việt Nam: kiên nhẫn, bền bỉ và khát vọng tự cường. Từ một nền rừng phụ thuộc vào tự nhiên, Việt Nam đã chủ động chọn giống, nhân giống, tạo nguồn gen riêng. Những “rừng keo lai Việt Nam” không chỉ là thành quả của kỹ thuật, mà còn là biểu tượng cho ý chí và bản lĩnh của con người Việt Nam trong khoa học.
Và từ trong lớp sương Ba Vì mỗi sớm, dường như vẫn còn đó dáng người nhỏ bé, cặm cụi bên hàng cây, như một người gieo hạt không mệt mỏi, gieo cho đất, cho người, và cho tương lai xanh của đất nước.
Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chuỗi sự kiện kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12/2025. Trong đó, trọng tâm là lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, tổ chức sáng 12/11/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hơn 1.200 đại biểu tham dự. Báo Nông nghiệp và Môi trường sẽ truyền hình trực tiếp sự kiện này.

























