Rừng chè cổ thụ dưới chân đá thiêng Tòng Pành
Từ trung tâm Đảng ủy xã Hồ Thầu, theo con đường bê tông thẳng thớm lên đỉnh Chiêu Lầu Thi cao 2.402 mét, bạn đã đặt chân tới rừng chè shan cổ thụ quý hiếm tuổi đời hàng trăm năm. Đây là một trong số ít những rừng chè còn sót lại trên mảnh đất cực Bắc và tập trung thành một cụm rừng lớn, không phân tán như các khu vực chè rừng cổ thụ khác…

Rừng chè shan cổ thụ trăm tuổi ở Hồ Thầu. Ảnh: Đình Trung.
Triệu Tà Sếnh, cán bộ Văn phòng Đảng ủy xã Hồ Thầu dẫn chúng tôi mục sở thị rừng chè. Mặc dù là người địa phương nhưng Sếnh cũng phải hỏi thăm đường, bởi khu vực rừng chè sinh sống cách khá xa đường lớn, khu dân cư, nằm biệt lập. Đó cũng là dụng ý và mong muốn của anh Nguyễn Trung Dũng - người đang muốn “giấu” rừng chè đi, càng ít người biết càng tốt. Nguyên do của nó cũng vô cùng thuyết phục.
Sau một hồi, cuối cùng chúng tôi cũng tới được nơi cần đến. Trước mắt tôi, một thung lũng lặng yên, vẹn nguyên và bạt ngàn những cây chè cổ thụ cao 4 - 5 mét, tay cành vươn cao, thân xanh rêu toàn địa y và những cây lan gió ký gửi. Rừng chè trồng không theo hàng lối, hoặc có thể, chúng tôi chưa tìm được hướng tiếp cận tốt nhất, nơi có thể không để sót một cây chè nào, hoặc không biến mình bị lạc giữa mê cung chè.
Trên sườn đồi thoai thoải, những cây chè hàng trăm năm cắm rễ có mặt trên mảnh đất nổi tiếng về danh thắng ruộng bậc thang này. Đã từng đến Hà Giang nhiều lần, đã nghe nhiều về vùng sản xuất chè shan nổi tiếng như Thông Nguyên, Túng Sán, Nậm Thi, Hồ Thầu…, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được trực tiếp ngắm một rừng chè nguyên bản, đẹp đẽ, hoang sơ và huyền bí như thế.
Những cây chè thân bằng cái phích, cành lá vươn cao, vươn xa, rậm rạp, chiếm lĩnh một khu đất lên tới cả chục m2. Có những cây vươn thẳng gần chục mét, thân xù xì, u cục; có những cây bay ngang, gốc to bằng giành tích; có những cây một người ôm cảm giác vẫn còn chật chội…

Những cây chè cổ thụ thân bám đầy địa y, dương xỉ, rêu mốc... Ảnh: Khương Trung.

Anh Nguyễn Trung Dũng chọn phương pháp canh tác thuận tự nhiên, không đốn chặt cây để bảo tồn, phục hồi rừng chè cổ thụ. Ảnh: Đình Trung.
Rừng chè shan cổ thụ trên tọa trên độ cao 1.300 mét thuộc sở hữu của 22 hộ dân người Dao thôn Tân Minh, xã Hồ Thầu. Chưa có một nghiên cứu, phân tích mẫu vật cụ thể để xác định tuổi chính xác của rừng chè cổ thụ nơi đây, nhưng bằng kinh nghiệm bản thân và những câu chuyện của người dân bản địa, anh Dũng cho biết, tuổi đời của rừng chè này từ 300 - 400 năm.
Bà cụ người Dao hơn 80 tuổi Triệu Mùi Khé - nhà sát rừng chè cổ thụ, ngơ ngác khi gặp khách lạ. Cụ bảo, “không biết rừng chè này có từ khi nào, cụ nhận lại từ thời ông bà để lại, rồi tới lượt cụ, cụ truyền cho con cháu”.
Hiền lành như viên cuội dưới lòng suối, cụ Khé vận dụng hết tất cả vốn tiếng Kinh mà cụ có thể nói được để kể câu chuyện về rừng chè: Xưa, bản người Dao có tên là bản Bành Đĩa, có nghĩa là “bên dưới thác đá to”. Một thung lũng bằng phẳng, hiếm hoi nằm dưới nguồn nước dồi dào ở độ cao 1.300 - 1.500 mét, tổ tiên người Dao trồng cây chè, hoặc cũng có thể do chim tha hạt đến trồng, rồi hết mùa này tới mùa khác, quả cây rụng xuống, lại một thế hệ mới mọc lên, theo thời gian mà thành rừng.

Bà cụ người Dao hơn 80 tuổi Triệu Mùi Khé - một trong những hộ dân sở hữu rừng chè shan cổ thụ ở Hồ Thầu. Ảnh: Đình Trung.
Khi còn nhỏ, cụ Khé đã theo cha mẹ lên rừng hái chè. Nhưng, cây chè rừng rất cao, rất khó hái, lá cây chè rừng cũng thưa thớt vì cây già không ra nhiều lá, việc hái chè rừng rất khó khăn. Đồng bào phải vào rừng lấy tre, luồng bắc lên thành giàn cao, đứng trên giàn đó mà hái. Nhưng, một cây, mười cây, một trăm cây thì có thể hái được, bằng sự kiên nhẫn, nhưng 1.000 cây, 10.000 cây, rồi tới hàng chục ha chè rộng bạt ngàn trên địa hình núi đá trơn trượt, khe dốc, vào được tới nơi đã khó chứ nói gì tới việc leo trèo, hái lá…
Vậy là thay vì hái thủ công, hái tay, bà con chặt cành cho nó rơi xuống đất, rồi hái lá từ những cành cây đã đốn hạ như thế. Rừng chè, sau mỗi một mùa đốn cành, cây xơ xác, kiệt sức, lụi dần. Nhưng, không ai nghĩ về điều đó, bởi trong suy nghĩ của bà con, nếu cây ra nhiều lá thì hái, còn nếu không có lá thì thôi, không hái, có nghĩa là có rừng chè hay không có rừng chè, nó cũng giống như một cánh rừng ở Hồ Thầu. Mà ngàn năm nay, những cánh rừng ở Hồ Thầu vẫn thế, bạt ngàn phủ xanh những núi đá.
Một lý do khác cũng ảnh hưởng tới cách hành xử của bà con đối với rừng chè cổ thụ, đó là tùy thuộc vào giá thu mua chè cao hay thấp: nếu được giá, bà con lên rừng hái theo kiểu tận diệt, đốn cành thật đau, sau đó bón phân để thúc cho cây ra lá vào vụ sau. Và điều đó, thêm một lần nữa rừng chè cổ thụ bị đe dọa!
Cách thức khai thác thủ công này, với Nguyễn Trung Dũng, đó là cách thức không bền vững, và cần sớm thay đổi!
Người gác giữ rừng chè shan cổ thụ
Sinh năm 1979, Nguyễn Trung Dũng trước khi lên Hồ Thầu là một chuyên gia làm việc tại Công ty Hanel, có nhiệm vụ đi khảo sát các vùng sinh thái trước khi triển khai các dự án nông nghiệp công nghệ cao và dược liệu dưới tán rừng. Lên Hà Giang từ năm 2016, một năm tròn trịa Dũng đi khảo sát các cánh rừng từ Tây sang Đông, lăn lộn từ Xín Mần, Hoàng Su Phì sang Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Tại Hoàng Su Phì, gặp rừng chè shan cổ thụ ở Hồ Thầu, anh bị mê đắm. Quyết định nghỉ công việc tại Hanel, anh ở lại Hồ Thầu, giành tâm huyết nghiên cứu cây chè…

Anh Nguyễn Trung Dũng - người canh giữ, bảo tồn rừng chè cổ thụ. Ảnh: Đình Trung.
Tại Hồ Thầu, cùng người dân bản địa, anh tiếp quản lại Hợp tác xã Chè Hồ Thầu, tên sản phẩm thương mại là Từ Văn trà. Thói quen của một nhà nghiên cứu luôn muốn tìm hiểu tận gốc của vấn đề, Nguyễn Trung Dũng bỏ công nghiên cứu nguồn gốc của rừng chè shan cổ thụ.
Điều ngạc nhiên nhất mà anh phát hiện ra, đó là rừng chè shan ban đầu do một cộng đồng người Mông đã sinh sống trước đó là chủ nhân. Khi chuyển cư theo tập tục, họ đã để lại vườn chè này.
“Tôi nhận ra rằng, chỉ có ở đây mới có một vườn chè với độ tập trung lớn như vậy để có thể xây dựng và phát triển. Về tuổi đời, chúng có nhiều mức tuổi khác nhau. Theo góc độ chuyên ngành, chúng tôi xác định nếu tính cụ thể thì cứ 25 năm là một đời, có những cây đã trải qua 8 đời các gia đình người Dao sinh sống, tức là mấy trăm tuổi rồi.
Khi nhận rừng chè, hiện trạng chung khi đó hầu như suy kiệt. Thói quen canh tác đốn đau, chặt cành để hái lá của bà con khiến cây chè suy yếu, không kịp phục hồi để ra các đợt lá mới. Để duy trì, bảo tồn rừng chè, trước tiên phải để chúng hồi phục.

Xưởng sản xuất chè của Hợp tác xã Chè Hồ Thầu.
Gần chục năm, anh Dũng nhận thuê lại toàn bộ diện tích rừng chè cổ thụ của bà con, diện tích khoảng trên 12ha do 22 hộ dân đồng bào người Dao ở Hồ Thầu quản lý. Những năm đầu, anh để rừng cây phát triển tự nhiên, không tác động, khai thác, thu hoạch. Mục đích để thảm thực vật tầng dưới mặt đất phục hồi, cây chè cổ thụ ổn định, có thời gian hồi phục sau nhiều năm bị đốn cành, chặt cành khai thác lá…
“Chúng tôi không đốn cây chè nữa. Mô hình canh tác của chúng tôi là nông lâm kết hợp, xen canh, thuận theo tự nhiên, đa tầng tán, tuyệt đối không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Tức là, chè là tầng cây bụi, những cây cỏ dại, cây thân cỏ ở tầng mặt đất, sau đó đến trà ở tầng giữa, trên cùng là cây lâm nghiệp, cây rừng và cây cổ thụ, cây to. Mô hình này thực ra là kiến thức bản địa của các cộng đồng người Dao, người Mông trước đây. Họ không trồng độc canh mà trồng xen lẫn trong nương, rẫy, trong rừng. Chúng tôi quay lại mô hình canh tác đó.
Đặc biệt, chúng tôi không đốn cây chè, mà để nó tự sinh tự dưỡng. Khi các cành bên dưới không có nắng, chúng sẽ tự bỏ và rơi xuống, tạo ra chất dinh dưỡng cho đất. Chúng tôi không bổ sung thêm bất kỳ loại dinh dưỡng gì từ hệ sinh thái bên ngoài vào cho đất, chỉ hạn chế thu hoạch quá mức. Chúng tôi không tận thu, chỉ thu hoạch từ 1 đến 2 vụ/năm”.
Với sự nỗ lực của Nguyễn Trung Dũng, rừng chè shan cổ thụ đã dần hồi phục. Cây ổn định bộ rễ chủ, tay cành không bị xâm hại nay đã thêm nhiều cành mới. “Phương pháp canh tác thuận tự nhiên không đốn đau cây mà để nó tự sinh tự dưỡng. Lớp thảm thực vật dưới gốc trà rất mềm ẩm giúp cây tự dưỡng. Phương pháp này giúp cây tự cân bằng, và đó là sự phát triển bền vững” - Nguyễn Trung Dũng chia sẻ.

Trà thành phẩm sau khi được sơ chế tại xưởng của hợp tác xã.
Năm 2024, Nguyễn Trung Dũng cùng một nhóm các chuyên gia đã có bài nghiên cứu về công dụng của trà shan tuyết đối với tế bào ung thư gan. Bài báo này đã được đăng trên tạp chí khoa học và công nghệ của Mỹ. Đây là một nghiên cứu và thí nghiệm trung cấp, phân lập một vài hoạt chất từ cây chè shan tuyết của Hà Giang và từ các sản phẩm của anh sản xuất.
Trong các báo cáo và công trình nghiên cứu, nhóm của anh Dũng chỉ ra rằng trà shan tuyết là một chi họ của Camellia, thuộc chi cây thân gỗ, cây đại mộc, vì vậy, tuổi đời nó cao nhưng cũng rất nhạy cảm với môi trường. Xây dựng nó thành một vùng nguyên liệu lớn rất khó khăn so với trà công nghiệp.
“Trung Quốc cũng đã trải qua giai đoạn phát triển ồ ạt trà công nghiệp từ năm 1998 đến 2002, sau đó rơi vào thoái trào vì trà công nghiệp khiến người Trung Quốc không uống trà nữa. Đến năm 2002, Chính phủ Trung Quốc mới vào cuộc và xây dựng chiến lược phát triển ngành trà, phục hồi các di sản về trà. Trà Vân Nam bây giờ rất tương đồng với trà shan tuyết ở miền Bắc Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanmar. Vùng Vân Nam và các vùng lân cận là nơi khởi sinh của giống trà này. Các thuyết về một trung tâm không còn phù hợp nữa.

Người dân bắc thang, bắc giàn giáo để hái chè shan cổ thụ. Ảnh: Khương Trung.
Trước đây, vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, do dữ liệu thông tin còn kém, người ta cứ đi chứng minh Trung Quốc là nơi khởi nguồn, hoặc Việt Nam, hoặc Ấn Độ. Nhưng đó là những quan điểm không còn chính xác. Bây giờ, chúng tôi nhận thấy đây là cả một vùng nguyên sản rộng lớn, một vùng sinh thái từ phía Nam sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam, Vân Nam (Trung Quốc), Lào, Thái Lan, Myanmar nơi phân bố tự nhiên bao gồm cả chè thân bụi và chè thân gỗ đại mộc, cũng như các chi họ của Camellia như trà hoa vàng. Đây là một vùng phân bố tự nhiên của Camellia sinensis” - Nguyễn Trung Dũng phân tích.
Đưa trà shan cổ thụ Việt Nam đi xa
Trung thành với nguyên tắc không khai thác triệt để, không làm tổn thương cây, mỗi năm, anh cho người khai thác rừng chè hơn 12 ha hai mùa duy nhất: chè vụ đông và chè vụ xuân.
Chè vụ đông bắt đầu trên cực Bắc từ tháng 10. Khi đó, tiết trời đã rất lạnh. Rừng chè cao, thân bám kín địa y, dương xỉ, rêu mốc…, không thể leo lên cây chè để hái lá. Những cành cây cao tỏa ra xum xuê, tay không thể với tới được. Cách thức duy nhất, đó là bắc giàn để đứng lên hái chè.

Những đại cổ thụ chè shan ở xã Hồ Thầu. Ảnh: Đình Trung.
“Phương pháp này giúp bảo vệ cây chè cổ thụ, nhưng năng suất lao động sẽ rất thấp. Chúng tôi chấp nhận điều đó. Vụ đông, sản lượng chè thu hoạch sau chế biến được khoảng 100kg trà thành phẩm, nhưng đó là thứ chè đông quý giá, có một hương sắc riêng. Chúng ta có thể diễn đạt một cách văn hoa như thế này: trà shan vụ đông có hương vị đậm, gắt của một người đàn ông mạnh mẽ, tính khí khảng khái, ngay thẳng, nhưng rất sâu sắc, nồng ấm. Còn vụ chè xuân, đó là sự mơn mởn, trong lành, tươi mởn của những người thiếu nữ, mang hương vị ngây ngất, có chất men làm đắm say lòng người” - Nguyễn Trung Dũng chia sẻ.
Vụ chè xuân ở cực Bắc bắt đầu từ cuối tháng 3, muộn hơn dưới xuôi, nhưng thời gian thu hoạch kéo dài gần 2 tháng. Sản lượng trà shan vụ xuân do hợp tác xã chè Hồ Thầu của Nguyễn Trung Dũng thu hoạch được khoảng 1 tấn trà thành phẩm - gấp 10 lần sản lượng chè vụ đông.

Với phương pháp thuận tự nhiên, rừng chè cổ thụ đã được Nguyễn Trung Dũng phục hồi, bảo tồn...
“Nếu khai thác tận diệt, dùng phương pháp chăm sóc bằng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, tôi tính toán có thể nâng sản lượng lên gấp 10 lần, nghĩa là được khoảng 12 tấn trà thành phẩm vào vụ chè xuân, và đâu đó khoảng 1 tấn trà thành phẩm chè vụ đông. Nhưng, đánh đổi sản lượng là tuổi thọ của những rừng chè cổ thụ vô giá làm mất đi một di sản của các thế hệ tiền nhân đã gây dựng. Chúng ta không thể trồng lại ngay được những cây chè trăm tuổi, bởi cần thời gian, mà thời gian tính bằng thế kỷ” - anh Dũng phân tích.