Từ giấc mơ của cô gái trẻ
Nằm nép mình dưới dãy Trường Sơn hùng vĩ, làng Bhơ Hôồng (xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) như một viên ngọc nhỏ giữa đại ngàn. Con suối A Păng trong vắt ôm vòng quanh bản, ngày đêm róc rách, tách làng khỏi Quốc lộ 14G ồn ã. Băng qua chiếc cầu treo mảnh mai vắt qua dòng suối, gió núi thổi mát rượi, chúng tôi như lạc vào một ngôi làng cổ tích, tiếng cồng chiêng văng vẳng từ xa, hòa cùng tiếng gió, tiếng trẻ nô đùa giữa khoảng sân của nhà Gươl... như chưa từng biết đến sự ồn ào của phố thị.
Giữa không gian trong trẻo ấy, người Cơ Tu vẫn gìn giữ nếp sống xưa với nhà sàn mái lá, váy thổ cẩm rực rỡ, những chiếc gùi tre đan tinh xảo treo bên bếp lửa. Ở trung tâm làng, nhà Gươl - mái nhà chung vẫn sừng sững như linh hồn của Bhơ Hôồng. Ở đây, chúng tôi được nghe những câu chuyện của già làng kể về rừng, về lễ hội mừng lúa mới, về tình yêu trong những điệu hát lý và cả những giọng trẻ tràn đầy nhiệt huyết - những người đang tìm cách làm du lịch từ chính quê hương mình.
Đinh Thị Thìn (ở giữa) chụp hình với du khách nước ngoài. Ảnh: Lan Anh.
Trong những câu chuyện ấy, Đinh Thị Thìn - cô gái Cơ Tu có nụ cười sáng và đôi mắt nâu tràn niềm tin được nhắc đến như niềm tự hào của làng Bhơ Hôồng. Sau khi tốt nghiệp Đại học, Thìn có thể ở lại phố với một công việc ổn định, nhưng chị chọn quay về để “đánh thức Bhơ Hôồng” - ngôi làng quê hương đang dần chìm trong lặng lẽ. “Tôi sợ một ngày nào đó người ta quên mất ngôn ngữ của mình, quên tiếng chiêng, quên váy thổ cẩm. Vì thế, tôi muốn làm gì đó để vừa giữ bản sắc, vừa giúp bà con có sinh kế", chị nói.
Những ngày đầu thật gian nan. Người làng chưa ai biết “du lịch cộng đồng” là gì. Họ chỉ quen lên rẫy, đi rừng, chưa từng đón khách, chưa hiểu cách nấu ăn phục vụ hay sắp xếp nhà cửa sao cho thuận tiện. Thìn vừa học vừa làm, vừa thuyết phục bà con, vừa tự mày mò cách điều hành tour, làm phiên dịch, tổ chức biểu diễn văn nghệ, lo từng bữa ăn, chỗ ngủ cho khách. Bằng sự kiên trì và lòng nhiệt huyết, chị gieo những hạt giống đầu tiên cho du lịch địa phương, dần giúp người dân thay đổi tư duy: du lịch không chỉ mang lại thu nhập mà còn là cách lưu giữ văn hóa, quảng bá vẻ đẹp của chính dân tộc mình.
“Lúc đầu tôi lo lắm, không biết khách có thích ở nhà sàn mộc mạc không. Sau tôi mới hiểu, họ đến đây là để tìm cái mộc mạc ấy. Họ muốn ngủ nhà sàn, ăn món của người Cơ Tu và trò chuyện như những người bạn,” Thìn kể với giọng đầy sôi nổi.
Du khách thích thú trải nghiệm văn hóa đồng bào Cơ Tu ở thôn Bhơ Hôồng. Ảnh: Lan Anh.
Từ việc hướng dẫn du khách, Thìn mở thêm các lớp dạy tiếng Anh cho trẻ em trong làng, mở lớp giao tiếp cho người lớn, giúp bà con tự tin hơn khi nói chuyện với khách. Ngôi nhà sàn của gia đình được chị cải tạo thành Acu Homestay - một điểm lưu trú nhỏ nhưng ấm cúng, thoang thoảng hương quế, chăn đệm thổ cẩm rực rỡ, quanh nhà là vườn chuối, đồi quế và hoa rừng.
Đến sinh kế lâu dài
Đến Bhơ Hôồng, du khách không chỉ dừng chân ngắm cảnh mà còn được sống cùng người dân học vài câu tiếng Cơ Tu, nhóm lửa trại dưới hiên nhà sàn, cùng ăn cơm lam, cá suối nướng ống, zarắ (thịt ống thọc nhuyễn), bánh cuốt (bánh sừng trâu) và rau rừng. Những ai khéo tay còn được người làng hướng dẫn dệt thổ cẩm, đan gùi, tết vòng mây; tối đến lại hòa mình vào vũ điệu tung tung za zá giữa ánh lửa bập bùng, tiếng chiêng ngân vang.
Đặc biệt, khách được xem người dân chế biến rượu Tàvạt, Tr’đin từ cây đoát - thứ men rừng nồng ấm quyện trong vị khói, trong mùi tre nướng, khiến cả đêm Bhơ Hôồng như say men. Những món ăn tưởng chừng đơn sơ ấy lại níu chân người phương xa vì trọn vẹn vị núi rừng và tình người Cơ Tu.
Bhơ Hôồng bây giờ không còn chỉ sống bằng nương rẫy. Du lịch thổi hơi thở mới vào từng nếp nhà. Trẻ con thuộc lòng những câu chào: “Hello!”, “Nice to meet you!”. Các bà, các mẹ biết sắp xếp không gian gọn gàng, giữ làng sạch để đón khách. Những tập tục cổ như lễ mừng cơm mới, múa tung tung za zá, hát lý, nói lý - từng vắng bóng được khôi phục, truyền lại cho lớp trẻ. “Du lịch không chỉ tạo việc làm mà còn khiến bà con tự hào về chính mình,” Thìn nói. “Mỗi lần khoác váy thổ cẩm, đánh cồng chiêng, người già cười; thanh niên cũng cười vì thấy cái đẹp của mình được trân trọng”.
Du khách học cách bắn nỏ khi đến với Bhơ Hôồng. Ảnh: Lan Anh.
"Trước đây, sinh kế Bhơ Hôồng gắn chặt với nương rẫy. Mỗi sớm, người dân vác gùi vào rừng hái măng, lấy mật ong, săn bắt, về nhà phát rẫy, trồng sắn, bắp, keo. Cuộc sống bấp bênh, phụ thuộc thiên nhiên và những mùa rừng” già làng Bling Bloo’ kể.
Nhớ lại những ngày đầu làm du lịch, già làng Bling Bloo’ vẫn rưng rưng, năm 2013, ông với vai trò là Chủ tịch UBMT Tổ quốc xã Sông Kôn đến từng hộ vận động bà con làm du lịch cộng đồng. Ban đầu ai cũng e dè: “Du lịch là cái chi, có ăn được không?”, ông Bling Bloo' cười. Nhưng khi những đoàn khách đầu tiên ngồi bên bếp lửa, nghe chiêng, thử rượu Tàvạt, Tr’đin, mọi người hiểu ra: du lịch là cách làm ra của cải từ văn hóa và rừng mà không cần chặt rừng đi nữa.
Đến nay, 50 hộ trong làng tham gia làm du lịch, mỗi người một việc, người già biểu diễn cồng chiêng, kể chuyện làng; phụ nữ dệt thổ cẩm, nấu ăn; thanh niên dẫn khách trekking, tắm suối, bắn nỏ. Trung bình mỗi năm, làng đón gần 1000 lượt khách, mang lại thu nhập 5-6 triệu đồng/người/tháng. Nhờ du lịch, bà con bớt phụ thuộc vào rừng: phụ nữ tranh thủ dệt, đàn ông làm đồ thủ công, hướng dẫn khách; rừng vẫn xanh, người no hơn. “Giờ mình vẫn trồng keo, vẫn làm rẫy, nhưng không phụ thuộc như xưa. Rừng có khách tới ngắm cũng là cách mình giữ rừng,” già Bling Bloo' nói chậm rãi.
Thành công lớn nhất, theo bà con ở Bhơ Hôồng là du lịch đã làm tăng thu nhập và gắn kết cộng đồng: mỗi lần đón khách, cả làng phối hợp nhịp nhàng - đội cồng chiêng, nhóm ẩm thực, nhóm dẫn đường, nhóm dệt, nhóm đan lát… Bà con cũng ý thức bảo vệ môi trường hơn, đường làng, ngõ bản sạch sẽ; không ai vứt rác bừa bãi vì “làng mình là điểm đến”.
Mở ra con đường giảm nghèo
Theo ông Đỗ Hữu Tùng, Chủ tịch UBND xã Sông Kôn, du lịch cộng đồng không chỉ giúp bảo tồn văn hóa và tài nguyên mà còn mở ra con đường giảm nghèo bền vững cho người dân miền núi. Trước đây, sinh kế bà con phụ thuộc nhiều vào nương rẫy, khai thác rừng, nay, nhờ làm du lịch, họ có thêm việc làm ổn định, thu nhập tại chỗ và ý thức hơn trong việc giữ gìn môi trường sống.
Trung bình mỗi năm, làng đón gần 1000 lượt khách, mang lại thu nhập 5 - 6 triệu đồng/người/tháng. Ảnh: Lan Anh.
Để người dân hiểu du lịch là một công cụ mạnh mẽ để bảo tồn văn hóa và bà con hoàn toàn có thể phát triển kinh tế, xã đã đẩy mạnh truyền thông phù hợp với phong tục và địa bàn như vừa dùng loa truyền thanh, nhóm Zalo cộng đồng, fanpage xã; vừa đến từng nhà, từng xóm, trò chuyện trong các buổi sinh hoạt của hội phụ nữ, nông dân, thanh niên, hay dịp lễ hội văn hóa. Đặc biệt, chính quyền phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, bí thư chi bộ - những người nói tiếng đồng bào, có uy tín và ảnh hưởng trong cộng đồng. Nhờ vậy, người dân “thấy tận mắt - tin bằng lòng - làm theo hiệu quả”, thay đổi nhận thức từ bên trong, rồi thay đổi mạnh mẽ cách làm ăn, tham gia làm du lịch cộng đồng.
Đến nay, Bhơ Hôồng đã trở thành một trong 12 điểm du lịch nông thôn xanh bền vững của Quảng Nam (cũ) giai đoạn 2023 - 2025. Con đường bê tông nối làng với trung tâm xã đã mở; những vườn quế, vườn cau được quy hoạch lại; mái nhà sàn sạch, gọn, đón khách phương xa. Du khách đến Bhơ Hôồng không chỉ để ngắm cảnh mà còn học cách sống chậm, tôn trọng tự nhiên là điều người Cơ Tu vẫn làm từ bao đời nay.
Không chỉ Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn còn sở hữu nhiều cảnh sắc quyến rũ như suối nước nóng A Păng, thác Ra Lang, rừng gỗ lớn K8, khe suối Bhlô Bền... mỗi nơi là một câu chuyện văn hóa, một ký ức gắn với nhà Gươl, điệu tung tung za zá, lễ mừng lúa mới. Những làng du lịch cộng đồng đang dần hình thành, trở thành “hạt nhân sinh kế mới”, giúp người dân vừa giữ rừng, giữ văn hóa, vừa làm giàu trên chính mảnh đất quê mình.
Bhơ Hôồng đang đổi thay từng ngày, không chỉ là diện mạo của bản làng với những mái nhà sàn khang trang sạch sẽ, những con đường bê tông thẳng tắp mà còn là suy nghĩ của mỗi bà con Cơ Tu. Du lịch không chỉ là kế sinh nhai, mà là cách để đồng bào gìn giữ và kể tiếp câu chuyện của mình với thế giới - câu chuyện về một làng Cơ Tu bền bỉ vươn lên giữa rừng Trường Sơn.


![Mở kho báu bị lãng quên: [Bài 1] Cơ hội thoát nghèo cho xóm Lài](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/256w/files/nghienmx/2025/12/01/4648-dsc_8992_1-092017_948.jpg)

![Mở kho báu bị lãng quên: [Bài 2] Những trăn trở ở xóm Đăm](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/12/02/0329-dsc_8944_1-100022_1000.jpg)


![Mở kho báu bị lãng quên: [Bài 1] Cơ hội thoát nghèo cho xóm Lài](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/12/01/4648-dsc_8992_1-092017_948.jpg)
![Cuộc 'cách mạng' vùng cao: [Bài 3] Cây địa lan giúp dân thoát nghèo](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/binhnd/2025/11/24/4728-untitled-104330_528.jpg)


!['Quốc bảo sâm' Lai Châu: [Bài cuối] 'Trải thảm đỏ' mời gọi đầu tư](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/11/27/img_7028-152745_310.jpg)
![Cuộc 'cách mạng' vùng cao: [Bài 2] Củ khoai sâm ‘vươn mình’ trên TikTok](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/binhnd/2025/11/27/4818-cuoc-cach-mang-vung-cao-bai-2-cu-khoai-sam-vuon-minh-tren-tiktok-094806_454.jpg)
!['Quốc bảo' sâm Lai Châu: [Bài 5] Người La Hủ đầu tiên nhân giống sâm ở Sín Chải](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/11/27/4416-ha-dung-135717_821.jpg)


