| Hotline: 0983.970.780

Mở kho báu bị lãng quên: [Bài 2] Những trăn trở ở xóm Đăm

Thứ Ba 02/12/2025 , 10:03 (GMT+7)

Tối đó tôi ngủ lại xóm Đăm (xã Đức Nhàn, tỉnh Phú Thọ) và thức dậy trong bản giao hưởng của hàng trăm con gà trống gáy gần, gáy xa vang rền khắp núi.

Hộ nghèo và hộ khá ở xóm

Mở cửa sổ buổi sớm, tôi thấy một biển mây và sương trắng lững lờ trôi trước mặt. Giữa chốn bồng lai tiên cảnh đó, vẫn còn đầy rẫy những phận nghèo lẩn khuất nơi thung sâu, xó núi. Lúc tôi đến, ông Đặng Văn Ơn đang lúi húi phơi đám vỏ cây dại ngoài hiên căn nhà gỗ thấp lè tè. Mỗi kg vỏ khô ấy có giá vài chục ngàn, còn thương lái dưới xuôi thu mua làm gì thì ông cũng không rõ.

Năm 2016, ông được hỗ trợ cho một con bò theo chính sách hộ nghèo, song mùa đông năm đó mưa tuyết đã cướp nó đi. Sau đó ông cũng tự mua được một con trâu, nuôi đến khi lớn lại phải bán để giúp con trai trả nợ thợ xây nhà, nhưng vẫn còn nợ ngân hàng tới 40 triệu đồng.

Con ông hiện đi làm thuê ở Hà Nội, trong nhà chỉ còn hai vợ chồng già, kinh tế trông cả vào đám lúa nương. Mỗi vụ họ gieo chừng 1 tạ thóc giống, nếu được mùa thì thu được khoảng 2 tấn thóc thịt, đủ để ăn và chăn nuôi. Như năm nay mất mùa chỉ được non 1 tấn. Ông Ơn đã sống tới 60 tuổi mà chưa bao giờ trong nhà có nổi 10 triệu đồng. Tài sản lớn nhất chỉ là hai bình thịt chua 30 kg, ông để dành cho thằng út... chờ ngày lấy vợ.

Gia cảnh của ông Đặng Văn Ơn - một hộ nghèo của xóm Đăm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Gia cảnh của ông Đặng Văn Ơn - một hộ nghèo của xóm Đăm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Khi tôi hỏi về chè shan tuyết, ông chỉ thở dài. Nhà ông có hai vườn, trước có những gốc to cả người ôm nhưng đã phát chặt làm nương sắn, nương ngô nên giờ còn khoảng 70 cây, gốc nào to nhất cũng chỉ bằng cái phích. “Trước đây tôi vẫn để chè hoang trên rừng, nhưng năm ngoái có người ở xóm Lài thu mua thì mới hái bán. Mỗi buổi được khoảng 10 kg, bán với giá 30.000 đồng/kg, được ba lần hái như thế thì họ lại dừng”.

Tôi được giới thiệu đến nhà ông Đặng Văn Phiêm - hộ có kinh tế khá nhất xóm Đăm nhờ chăn nuôi trâu, bò. Ông kể, ngày mới lấy vợ ra ở riêng, không có ruộng nương gì bố mẹ thương tình cho một con nghé cái. Từ con nghé làm vốn đó mà ông chăm, cho đẻ rồi bán nghé con, mua thêm bò, trâu để nuôi. Có thời điểm, tổng đàn gia súc nhà ông lên tới hơn 30 con bò, hơn 10 con trâu, phải trồng 1 ha cỏ voi làm thức ăn vẫn còn thiếu nên chủ yếu chăn thả trong rừng; sáng dắt đi, tối lại dắt về chuồng.

Gia đình ông có 7 khẩu gồm hai vợ chồng già, hai vợ chồng trẻ và ba đứa cháu. Nhờ chăm chỉ làm ăn, lại biết tính toán nên chưa bao giờ ông Phiêm nằm trong diện hộ nghèo. Ông vẫn còn giữ lại được chiếc nồi đồng quý của cha ông - thứ nhiều nhà khác buộc lòng phải bán đi lúc khó khăn. Nhưng đất rừng ngày càng thu hẹp do bà con đã trồng cây, không còn nhiều chỗ chăn thả, nên năm ngoái ông bán bớt đi 15 con trâu bò, được hơn 100 triệu đồng, rồi mua vài đám ruộng. Từ đó, gia đình ông tự túc lương thực, không phải ăn đong như trước nữa. Sang năm, ông dự định làm một căn nhà kiên cố - khi thầy cúng phán là "hợp tuổi".

Ông Đặng Văn Phiêm bên chiếc nồi đồng gia truyền. Ảnh: Dương Đình Tường.

Ông Đặng Văn Phiêm bên chiếc nồi đồng gia truyền. Ảnh: Dương Đình Tường.

Thực tế ở đồi Chim

Đút mấy quả quýt rừng vào túi, tôi theo chân anh Lý Trung Kiên, một người dân xóm Đăm để lên núi. Trước tôi đã có hai đoàn về đây đi khảo sát chè shan tuyết. Đường men theo con suối cạn lổn nhổn những tảng đá to như cái bàn, cái phản, trượt xuống từ ngọn đồi Chim. Chúng tôi luồn lách qua những lùm cây để tiến lên. Khắp không gian tưng bừng tiếng chim rừng.  

Đi chừng 40 phút, đoàn bắt đầu chạm vào vùng chè shan tuyết với những chiếc lá xanh sẫm in trên nền rừng xanh nhạt. Lúc đầu chỉ là lác đác đôi ba cây, nhưng càng tiến sâu vào lại càng nhiều. Có những thân chè to gần một người ôm, cây mọc ở bìa rừng nhiều nắng thì mốc trắng, còn cây mọc sâu trong rừng thì màu xanh xám. Tôi hái một búp chè cuối vụ bám đầy lông trắng bỏ vào miệng nhẩn nha nhai. Vị của nó cứ ngọt nơi đầu lưỡi, theo tôi suốt quãng đường dài vài cây số.

“Chè shan tuyết ra quả nhiều, nhưng trong rừng hiếm cây con, chắc là bị sóc, chuột ăn hết rồi”, Kiên nói trong khi dẫn tôi tới một khoảnh đồi có hàng chục cây chè cổ thụ ước tính vài trăm năm tuổi, gốc to cỡ một người ôm. Ngày xưa, chè shan tuyết mọc dày trên đồi Chim, có những gốc chu vi cả mét. Năm 2016, tuyết rơi đầy trên các mái nhà ở bản Đăm, rơi đầy trên đường khiến trâu bò đi in thành những hố sâu hoắm.

Rừng chè shan tuyết ở đồi Chim. Ảnh: Dương Đình Tường.

Rừng chè shan tuyết ở đồi Chim. Ảnh: Dương Đình Tường.

Rừng chè shan tuyết bị tuyết phủ kín, một thời gian sau lá úa như có ai dội nước sôi, nhiều cây chết lan từ lá xuống cành rồi tới gốc. Người Dao bảo chè bị "khuy". Thêm vào đó, bà con làm nương chặt bớt chè đi nên giờ chỉ còn khoảng 30% so với trước, không ít cây là tái sinh từ gốc đã bị đốn.

Anh Lý Văn Thắng - Bí thư xóm Đăm cho biết, xóm có 67 hộ trong đó 30 hộ nghèo, 13 hộ cận nghèo. Điện mới có từ năm 2008, đường có từ năm 2012. Trước dân trong xóm muốn ra huyện chỉ còn cách đi bộ xuống núi, ra bến vẫy thuyền bưu điện 7-8 tiếng mới tới.

“Xưa cụ tôi có bốn vườn chè shan tuyết trên rừng, thường hái búp mang xuống chợ đổi muối, đổi gạo. Sau này cụ chia cho mỗi người con một vườn, rồi con lại chia cho cháu. Năm 1983, khi tôi mới 3 tuổi đã theo mẹ lên núi hái chè rồi bà bị ngã từ trên ngọn cây xuống, thoát vị đĩa đệm, giờ đi vẫn còn khom lưng.

Cuối những năm 80, do không có ai mua chè nữa, gia đình tôi mới phát đi để trồng lúa nương, giờ chỉ còn sót một cây to trên rừng. Khoảng 40 hộ khác vẫn còn nhiều cây to, nhưng do suốt 20 năm qua chẳng bán được nên chỉ hái về tự sao rồi uống. Vừa rồi chi bộ xóm tổ chức họp để bảo tồn, phát triển chè shan tuyết: nương của hộ nào thì hộ đấy chăm sóc, cấm chặt phá. Người hưởng ứng, người lại dửng dưng”, anh Thắng kể.

Một cây chè shan tuyết cổ thụ trên đồi Chim. Ảnh: Dương Đình Tường.

Một cây chè shan tuyết cổ thụ trên đồi Chim. Ảnh: Dương Đình Tường.

Cách đây 6-7 năm, huyện Đà Bắc hỗ trợ cho xóm Đăm cái lò sấy chè bằng củi trị giá hơn 20 triệu đồng đặt tại nhà ông Đặng Văn Dèn - trưởng xóm. Lò hoạt động được một thời gian thì lò bị bỏ hoang đến năm nay, được sự động viên của xã mới đỏ lửa trở lại, thu mua búp chè tươi của bà con với giá 30.000 đồng/kg. Trung bình cứ khoảng 5 kg búp tươi chế biến được 1 kg chè khô. Ông Dèn túc tắc bán 250-300.000 đồng/kg chè khô, chủ yếu cho UBND xã Đức Nhàn để làm quà biếu dù nó không có nhãn mác, thương hiệu.

Xưa, mỗi buổi lên rừng người ta có thể hái được hàng yến chè shan tuyết, giờ chỉ được đôi ba cân, thành ra cũng không ai mặn mà. Hơn nữa, vườn chè shan tuyết lại nằm ở khu vực rừng đầu nguồn, dân muốn đốn tỉa cho cây ra nhiều búp cũng không được nên hầu như bị bỏ hoang.

Công cuộc thoát nghèo ở xóm Đăm vì thế gian nan. Rừng thì bát ngát, song lại đất để sản xuất chỉ có 7 ha, lại manh mún: mảnh ở góc đồi này, mảnh ở góc đồi kia. Gần đây, Nhà nước đã hỗ trợ bò cho hơn 20 hộ, hỗ trợ dê cho hơn 20 hộ, hỗ trợ các loại máy móc cho 7-8 hộ nhưng đa số kinh tế cũng chưa bứt phá, thoát nghèo bền vững được.

Xem thêm
Khởi động Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ

Lễ trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ đợt 7 dự kiến được tổ chức vào dịp kỷ niệm Quốc khánh năm 2027.

Bình luận mới nhất

Mở kho báu bị lãng quên: [Bài 2] Những trăn trở ở xóm Đăm
Phóng sự 7 giây trước