| Hotline: 0983.970.780

Lươn Việt Nam chinh phục thị trường khó tính

Thứ Sáu 09/05/2025 , 15:12 (GMT+7)

Xuất khẩu lươn của Việt Nam tăng gần gấp đôi nhờ mô hình nuôi không bùn, mở ra triển vọng mới nhưng vẫn đối mặt nhiều rào cản tiêu chuẩn quốc tế.

Xuất khẩu tăng trưởng ấn tượng

Theo thống kê từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), năm 2023, kim ngạch xuất khẩu lươn của Việt Nam đạt khoảng 1,7 triệu USD, chủ yếu nhờ sự gia tăng nhu cầu từ các thị trường như Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Chỉ trong vòng 10 tháng đầu năm 2024, giá trị xuất khẩu lươn đã tăng gần gấp đôi, đạt 2,98 triệu USD với sản lượng khoảng 670 tấn. Trong đó, Trung Quốc hiện là thị trường tiêu thụ lớn nhất với khoảng 300 tấn lươn, chiếm gần một nửa tổng lượng xuất khẩu. Nhật Bản nhập khoảng 50 tấn, Mỹ 38 tấn và Hàn Quốc 33 tấn. 

Kim ngạch xuất khẩu lươn Việt Nam đã tăng mạnh. Ảnh minh họa.

Kim ngạch xuất khẩu lươn Việt Nam đã tăng mạnh. Ảnh minh họa.

Một trong những yếu tố quan trọng giúp ngành nuôi lươn Việt Nam rộng đường xuất khẩu là sự phát triển mạnh mẽ của mô hình nuôi lươn không bùn bằng bể composite. Khác với cách nuôi truyền thống trong ao đất có lớp bùn đáy, mô hình này giúp người nuôi kiểm soát tốt hơn các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ pH, chất lượng nước và dịch bệnh.

Đồng thời, việc không sử dụng bùn đáy còn giúp giảm nguy cơ tích tụ chất thải, tăng khả năng phòng bệnh, rút ngắn thời gian nuôi và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Lươn nuôi bằng bể composite cũng dễ dàng hơn trong việc quản lý khẩu phần ăn, điều chỉnh mật độ thả nuôi và giám sát sức khỏe đàn lươn. Nhờ đó, chất lượng sản phẩm được cải thiện đáng kể, phù hợp với các yêu cầu của thị trường nhập khẩu, đặc biệt là về dư lượng kháng sinh và truy xuất nguồn gốc.

Hiện nay, giá bán lẻ lươn tại Việt Nam dao động từ 3,39 đến 8,62 USD/kg, tùy theo chất lượng và phương pháp nuôi. Lươn nuôi bằng công nghệ không bùn đang được đánh giá cao hơn cả về mẫu mã lẫn độ đồng đều, góp phần nâng giá trị xuất khẩu.

Rào cản kỹ thuật và chuẩn hóa chất lượng quốc tế

Bên cạnh những tín hiệu tích cực, ngành lươn Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít thách thức trên con đường chinh phục các thị trường khó tính.

Các rào cản kỹ thuật ngày càng nghiêm ngặt, đặc biệt từ Mỹ và châu Âu, yêu cầu sản phẩm thủy sản phải đạt các chứng nhận quốc tế như ASC (Aquaculture Stewardship Council), HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Points), cùng với hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch, tuân thủ quy định về môi trường và an toàn thực phẩm.

Sản phẩm thủy sản Việt Nam, bao gồm cả lươn, cam kết có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ các tiêu chuẩn truy xuất minh bạch và đạt chứng nhận quốc tế, đảm bảo chất lượng và an toàn. Ảnh minh họa.

Sản phẩm thủy sản Việt Nam, bao gồm cả lươn, cam kết có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ các tiêu chuẩn truy xuất minh bạch và đạt chứng nhận quốc tế, đảm bảo chất lượng và an toàn. Ảnh minh họa.

Báo cáo của IDH - Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững - cho thấy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành lươn ở Việt Nam hiện vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế.

Phần lớn hộ nuôi còn hoạt động quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết và chưa có quy trình kiểm soát chất lượng đồng bộ. Việc chưa xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch cũng khiến lươn Việt Nam dễ bị đánh giá thấp về độ tin cậy so với sản phẩm từ các quốc gia như Thái Lan, Nhật Bản hay Hàn Quốc.

Ngoài ra, do đặc tính sinh học của loài lươn - không dễ sinh sản nhân tạo - phần lớn giống vẫn được khai thác từ tự nhiên. Điều này không chỉ tiềm ẩn rủi ro cạn kiệt nguồn lợi mà còn ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và tính ổn định của nguồn cung.

Hướng tới chuỗi liên kết bền vững và bài bản

Trước bối cảnh đó, xây dựng chuỗi liên kết nuôi - chế biến - xuất khẩu bền vững là hướng đi bắt buộc nếu Việt Nam muốn biến lươn thành ngành hàng mũi nhọn trong xuất khẩu thủy sản. Trong đó, mô hình nuôi không bùn đóng vai trò then chốt, không chỉ nâng cao chất lượng mà còn giúp đồng bộ hóa quy trình từ khâu giống, thức ăn, chăm sóc đến thu hoạch và đóng gói. Một số giải pháp đang được các chuyên gia và doanh nghiệp trong ngành đề xuất:

Trước hết, cần đầu tư công nghệ nuôi lươn không bùn, khuyến khích người nuôi chuyển đổi sang bể composite với hệ thống lọc tuần hoàn, kiểm soát nhiệt độ và oxy sẽ giúp kiểm soát tốt các yếu tố môi trường, giảm thiểu dịch bệnh và tăng tỷ lệ sống.

Các cơ sở nuôi cần được khuyến khích chuyển đổi theo hướng quy mô trang trại, ứng dụng số hóa để theo dõi sinh trưởng và truy xuất nguồn gốc điện tử.

Mô hình nuôi lươn không bùn trong bể composite mang lại lợi nhuận lớn cho người dân. Ảnh minh họa.

Mô hình nuôi lươn không bùn trong bể composite mang lại lợi nhuận lớn cho người dân. Ảnh minh họa.

Cùng với đó, hệ thống truy xuất nguồn gốc cần được thiết lập thống nhất từ khâu con giống, thức ăn, thuốc thú y đến quá trình thu hoạch và chế biến. Chỉ khi người tiêu dùng có thể theo dõi toàn bộ hành trình của con lươn qua ứng dụng mã QR, phần mềm quản lý trại nuôi để ghi nhận đầy đủ thông tin từ lúc thả giống đến khi thu hoạch và xuất khẩu, thì niềm tin với sản phẩm Việt Nam mới thực sự được nâng cao.

Một yếu tố quan trọng khác là đào tạo và hỗ trợ doanh nghiệp đạt chứng nhận quốc tế. Các chương trình phối hợp giữa nhà nước, tổ chức phát triển (như IDH, GIZ), hiệp hội và doanh nghiệp cần tập trung vào hướng dẫn thực hành nuôi trồng tốt, hỗ trợ hồ sơ kỹ thuật và đồng hành trong quá trình kiểm định - chứng nhận. Các địa phương có tiềm năng như An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu cần được chọn làm điểm đến thí điểm mô hình “liên kết 4 nhà” giữa nhà nông - nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp.

Song song với đó, cần thúc đẩy hợp tác công - tư để phát triển con giống nhân tạo chất lượng cao. Chỉ khi tự chủ được nguồn giống, ngành lươn Việt Nam mới tránh được tình trạng phụ thuộc vào đánh bắt tự nhiên và đảm bảo ổn định cho sản xuất quy mô lớn.

Cuối cùng, việc đa dạng hóa thị trường cũng đóng vai trò quan trọng. Ngoài các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc, doanh nghiệp cần tìm kiếm cơ hội tại các nước Trung Đông, châu Phi hay các vùng lãnh thổ có cộng đồng châu Á lớn - nơi có nhu cầu cao với các món ăn từ lươn.

Lươn Việt Nam có tiềm năng lớn để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong ngành thủy sản. Tuy nhiên, để đạt được điều này, cần có sự nỗ lực đồng bộ từ các bên liên quan trong việc nâng cao chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và xây dựng chuỗi liên kết bền vững.

Xem thêm
Thủ phủ gà thả vườn phát triển mạnh thêm vật nuôi mới

VĨNH LONG Xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm đặt mục tiêu nâng tổng đàn thỏ lên 18-20 ngàn con và trở thành một trong những đối tượng chăn nuôi chủ lực của địa phương.

Chó thả rông nghi mắc bệnh dại cắn liên tiếp 3 người

ĐỒNG NAI Ba người ở xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ bị chó thả rông có dấu hiệu mắc bệnh dại, không rõ chủ cắn lại một lần nữa đặt ra câu chuyện quản lý chó, mèo.

Dưa hấu được mùa, giá giảm nhưng nông dân vẫn lãi khá

ĐÀ NẴNG Nông dân Hòa Vang (Đà Nẵng) đang vào mùa thu hoạch dưa hấu chính vụ. Nhờ được mùa, năng suất cao nên dù giá giảm bà con vẫn lãi khá.

Tây Nguyên xanh lên nhờ phụ nữ làm nông bền vững

Nhờ chương trình hỗ trợ, những phụ nữ ở Tây Nguyên đang truyền cảm hứng bằng mô hình nông nghiệp hiệu quả và thân thiện với môi trường.

Sống chung với khô hạn: [Bài cuối] Liên thông hồ chứa, chuyển nước các lưu vực

Dù nguy cơ thiếu nước sản xuất luôn thường trực, song với kế hoạch tưới chi tiết từng mùa vụ cũng như điều tiết khoa học, Ninh Thuận vẫn đảm bảo nước tưới.

Khoa học công nghệ - chìa khóa mở con đường mới cho ngành chè

'Khoa học công nghệ góp phần quan trọng vẽ bức tranh ngành chè Việt Nam', TS Lưu Ngọc Quyến, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc nhấn mạnh.

Để dược liệu dưới tán rừng ‘cất cánh’

Sản xuất dược liệu dưới tán rừng không chỉ là hướng đi tiềm năng mà còn là lời giải bền vững cho sinh kế người dân miền núi nếu được đầu tư bài bản.