| Hotline: 0983.970.780

Vượt khó từ nuôi cá tầm lồng trên sông

Thứ Bảy 27/09/2025 , 13:47 (GMT+7)

Từng thất bại, nợ nần sau dịch bệnh, anh Trương Văn Việt vươn lên với mô hình nuôi cá tầm, mở hướng thoát nghèo, làm giàu bền vững.

Gian nan từ nghề sông nước đến hướng đi mới

Hơn 17 năm làm nghề lái tàu, chở vật liệu xây dựng trên khắp tuyến sông, anh Trương Văn Việt (sinh năm 1981, thôn Thị Thôn, xã Chi Lăng, tỉnh Bắc Ninh) từng gắn bó với những chuyến hàng cát, đá, tàu tải trọng tới hơn 400 tấn. Là một trong số ít người ở xã có chứng chỉ thuyền trưởng, anh Việt quen với sóng gió, song biến động thị trường khiến nghề dần khó bám trụ.

Từ năm 2020, anh tìm hiểu và đưa cá tầm về thả lồng. Loài cá vốn thích nước lạnh, thường nuôi ở vùng miền núi tưởng khó hợp, nhưng qua nhiều vụ nuôi, anh đã tích lũy kinh nghiệm và khẳng định được hướng đi.

Anh Trương Văn Việt (bên phải) cùng ông Nguyễn Xuân Lâm, Trưởng phòng Thủy sản, Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Bắc Ninh kiểm tra sự tăng trưởng cá tầm trong lồng nuôi. Ảnh: Phạm Minh.

Anh Trương Văn Việt (bên phải) cùng ông Nguyễn Xuân Lâm, Trưởng phòng Thủy sản, Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Bắc Ninh kiểm tra sự tăng trưởng cá tầm trong lồng nuôi. Ảnh: Phạm Minh.

Đột phá nuôi cá tầm qua mùa nóng

Điểm khác biệt của anh Việt so với các hộ khác là kiên trì duy trì nuôi cá tầm cả trong mùa nóng. Anh chia sẻ: “Ở quanh vùng Bắc Ninh cũ giờ chỉ còn mình tôi nuôi cá tầm mùa này. Tôi vào giống nhỏ dài khoảng 18 cm từ tháng 3, khi trời vẫn lạnh, để cá quen dần với nhiệt độ ấm lên. Đến tháng 10 trời trở lạnh, cá tăng trưởng rất nhanh, mỗi tháng nặng thêm 400–500g”.

Không chỉ chọn thời điểm thích hợp, anh Việt còn tự thiết kế mái che cho lồng cá, tạo độ mát, hạn chế tác động của nắng nóng. Nhờ vậy, đàn cá khỏe mạnh, ít bệnh. Anh khẳng định: “Bây giờ cứ vào cá là thắng lợi, có điều thắng lớn hay ít còn do thị trường. Vốn lớn thì thắng lớn”.

Mái che được anh Việt tự thiết kế giúp làm mát, bảo vệ đàn cá tầm trong mùa nóng. Ảnh: Phạm Minh.

Mái che được anh Việt tự thiết kế giúp làm mát, bảo vệ đàn cá tầm trong mùa nóng. Ảnh: Phạm Minh.

Đến nay, gia đình anh Việt đã có tổng cộng 4 lồng cá tầm với kích thước phổ biến 54–84m² mỗi lồng. Cá tầm thích hợp với nước lạnh, mùa đông ở sông nhiệt độ từ 16–19°C giúp cá lớn nhanh, hệ số chuyển đổi thức ăn chỉ khoảng 1,3–1,4, thấp hơn nhiều so với các loài cá khác. Nhờ vậy, chi phí giảm, lợi nhuận tăng.

Anh dành 2 lồng nuôi cá từ cỡ nhỏ, giá vào giống thấp hơn, nhưng khó khăn là phải nuôi thông mùa nóng. Song bằng kinh nghiệm của anh, đàn cá này đã khoẻ mạnh bước vào mùa tăng trưởng nhanh, từ tháng 10 dương lịch trở đi, trời bắt đầu lạnh, thích hợp với đặc tính của cá tầm. “Nếu nhanh thì sẽ kịp thu hoạch vào dịp Tết, chưa đủ biểu để xuất thì chờ đến tháng 3 sang năm”, anh Việt cho biết thêm.  

Ngoài ra, anh để dành 2 lồng còn lại thả giống cỡ 1,5–2 kg vào tháng 10, chỉ sau ba tháng cá có thể xuất bán dịp Tết. Mỗi kg cá tăng trọng mang về lãi ròng 90.000–100.000 đồng. Nếu thuận lợi, một vụ cá tầm có thể lãi ròng 400 triệu đồng.

Theo tính toán, với mỗi kg cá tầm tăng trưởng, anh lãi ròng từ 90.000–100.000 đồng. Nếu thuận lợi có thể mang về cho gia đình anh khoảng 400 triệu đồng 1 năm sau khi trừ chi phí. “Cá tầm ở sông không được giá như cá tầm Sa Pa, giá bán chỉ khoảng 130.000–140.000 đồng/kg, nhưng nếu biết chọn giống và thời điểm thì hiệu quả rất cao,” anh Việt chia sẻ.

Dù vậy, nghề nuôi cá tầm cũng không ít rủi ro. Mùa lũ, nước sông đục và chảy xiết, cá dễ bị bệnh nấm, chết hàng loạt. Năm ngoái, gia đình anh từng thiệt hại hàng trăm triệu đồng sau bão Yagi. Để khắc phục, anh sáng tạo ra hệ thống lồng có thể di dời. Khi mưa lũ, lồng được kéo vào khu vực nước tĩnh, giảm áp lực dòng chảy, giúp cá không bị kiệt sức và hạn chế bệnh tật.

Khu lồng nuôi cá bỗng trên sông của gia đình anh Trương Văn Việt tại xã Chi Lăng, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Phạm Minh.

Khu lồng nuôi cá bỗng trên sông của gia đình anh Trương Văn Việt tại xã Chi Lăng, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Phạm Minh.

Song song với cá tầm, anh Việt còn nuôi thử nghiệm 7 lồng cá bỗng – loài cá đặc sản có thịt trắng, ngọt, giá trị thương phẩm cao. Dù chu kỳ nuôi kéo dài tới 4–5 năm, song cá bỗng dễ chăm sóc, ít bệnh, tỷ lệ sống cao. Khi đạt trọng lượng trên 3 kg, giá bán có thể lên đến 250.000–300.000 đồng/kg. Đây được xem là hướng đi lâu dài và là cơ hội đột phá kinh tế của gia đình.

Sinh kế bền vững từ cá đặc sản và hướng tới giá trị cao

“Đầu tư giống cá tầm cỡ to rất tốn kém, một lồng có thể cần đến 350–400 triệu đồng. Vốn lớn mới mong thắng lớn, nhưng tôi vẫn còn nợ 1–2 tỷ đồng”, anh bộc bạch.

Khó khăn lớn nhất hiện nay với gia đình anh Việt vẫn là vốn. Chính sách hỗ trợ 15 triệu đồng/lồng của tỉnh Bắc Ninh đã kết thúc từ năm 2016, khiến người dân tự xoay sở. Anh mong Nhà nước sớm có chính sách hỗ trợ về con giống, nhất là giảm yêu cầu đối ứng vốn, để các hộ thực sự khó khăn cũng có cơ hội phát triển.

Ngoài ra, anh cũng chú trọng nâng cao uy tín sản phẩm. Cơ sở của anh từng đạt chứng nhận VietGAP và hiện đã có giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm. Anh hy vọng được làm lại VietGAP để mở rộng đầu ra, đưa sản phẩm cá tầm và cá bỗng ra thị trường lớn.

Cá bỗng được xem là hướng đi lâu dài và là cơ hội đột phá kinh tế của gia đình anh Việt. Ảnh: Phạm Minh.

Cá bỗng được xem là hướng đi lâu dài và là cơ hội đột phá kinh tế của gia đình anh Việt. Ảnh: Phạm Minh.

Ông Nguyễn Xuân Lâm, Trưởng phòng Thủy sản, Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Bắc Ninh đánh giá: “Mô hình nuôi cá tầm, cá bỗng của hộ anh Việt đã mở ra hướng đi mới cho thủy sản địa phương. Một lồng cá tầm có thể cho năng suất 5–6 tấn, doanh thu 700–750 triệu đồng, lãi ròng 100–110 triệu đồng. Lồng cá bỗng cho 7–8 tấn, doanh thu 1–1,2 tỷ đồng, lãi 200–250 triệu đồng. Đây là minh chứng rõ rệt cho hiệu quả kinh tế và sự đa dạng hóa đối tượng nuôi, góp phần khai thác hợp lý diện tích mặt nước sông”.

Từ chỗ thất bại liên tiếp, đến nay mô hình nuôi cá lồng của anh Trương Văn Việt đã đem lại thu nhập ổn định cho gia đình. Câu chuyện của anh là minh chứng cho sự kiên trì, sáng tạo, dám nghĩ dám làm của nông dân vùng sông nước Bắc Ninh, mở ra kỳ vọng về những sản phẩm thủy sản giá trị cao, góp phần phát triển kinh tế nông thôn bền vững.

Xem thêm
Nuôi bò tập trung loay hoay vì giá bấp bênh

SƠN LA Trong bối cảnh giá thu mua bò bấp bênh, các hộ chăn nuôi tập trung đang nỗ lực xoay sở, tìm nguồn thu từ nhiều hướng để chờ ngày giá ổn định.

Cấp 11.000 lít hóa chất tổng vệ sinh, ứng phó dịch bệnh

HẢI PHÒNG Chiến dịch 'Tháng tổng vệ sinh, khử trùng, tiêu độc môi trường' đợt 2 của Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hải Phòng đã kết thúc, giúp hạn chế dịch bệnh đàn vật nuôi.

Người trồng bí đỏ lao đao vì mất mùa, rớt giá

GIA LAI Vụ thu hoạch bí đỏ năm nay tại xã biên giới Ia O (tỉnh Gia Lai) thất bại khi năng suất giảm mạnh, giá rớt thê thảm khiến nhiều hộ dân lao đao.

Công nghệ thông minh thực hành tưới ướt khô xen kẽ trong canh tác lúa

An Giang Hệ thống thiết bị thông minh AWD giúp tiết kiệm nước, giảm khí thải nhà kính, hướng đến nhân rộng trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp.

Nông nghiệp công nghệ cao dẫn dắt kinh tế xanh

Đà Nẵng định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thông minh và sinh thái, coi đây là một trong những trụ cột chiến lược, tạo động lực phát triển kinh tế xanh.

Biến bùn thải thành ‘vàng nâu’

TP.HCM Bằng sáng kiến tái chế bùn thải, Công ty cổ phần Cao su Phước Hòa không chỉ tiết kiệm hàng tỷ đồng chi phí mà còn mở lối 'xanh hóa' ngành cao su.

Cơ hội tiếp cận nguồn tài chính xanh cho chủ rừng

HÀ TĨNH Trong tổng diện tích hơn 359.000 ha rừng và đất chưa có rừng, đến nay, toàn tỉnh Hà Tĩnh đã có hơn 34.000 ha được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC.