| Hotline: 0983.970.780

4 định hướng phát triển nuôi biển trọng tâm đến năm 2030

Thứ Tư 19/11/2025 , 14:30 (GMT+7)

Nuôi biển mở ra hướng phát triển mới, tạo giá trị kinh tế cao, giảm áp lực khai thác ven bờ và góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản cùng hệ sinh thái biển.

Nuôi biển thúc đẩy tăng trưởng xanh

Ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển (hay còn gọi là nuôi biển), với vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km² và hơn 3.200 km đường bờ biển.

Những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển kinh tế biển bền vững, nuôi biển đã và đang trở thành một trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng của ngành thủy sản, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân ven biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và thúc đẩy tăng trưởng xanh.

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển. Ảnh: Duy Học.

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển. Ảnh: Duy Học.

Tuy nhiên, ông Cẩn cũng nhìn nhận rằng, để phát triển theo hướng hiện đại, quy mô công nghiệp, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, nuôi biển vẫn còn nhiều thách thức, như: Quy hoạch và quản lý vùng nuôi còn hạn chế; hạ tầng kỹ thuật, giống, thức ăn, công nghệ nuôi và hệ thống giám sát môi trường còn thiếu đồng bộ; năng lực quản lý Nhà nước và giám sát hoạt động nuôi biển cần được tăng cường; trong khi đó, yêu cầu về chứng nhận, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe.

Cùng quan điểm, TS. Phạm Anh Tuấn, Ủy viên Thường vụ Hiệp hội Thủy sản Việt Nam cho biết, Việt Nam sở hữu tiềm năng lớn để phát triển nuôi biển ở vùng nước ven bờ lẫn xa bờ, với đối tượng và phương thức nuôi trồng rất đa dạng. Tuy nhiên, nuôi biển ven bờ hiện đã vượt quá sức chịu tải của môi trường, tiềm ẩn nhiều rủi ro về dịch bệnh và ô nhiễm môi trường. Vì vậy, cần quy hoạch và tổ chức lại sản xuất ở khu vực ven bờ. Đồng thời, đẩy mạnh mở rộng nuôi biển xa bờ theo hướng hiện đại và bền vững.

Phát triển nuôi biển tại vùng biển mở và xa bờ, với đặc trưng công nghiệp và sản lượng lớn, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư cao; trong khi Việt Nam còn hạn chế về kinh nghiệm. Điều này cần được chuẩn bị kỹ lưỡng từ lựa chọn giống nuôi, áp dụng trang thiết bị, công nghệ nuôi tiên tiến, chuẩn bị hệ thống dịch vụ hậu cần và hiểu biết nhu cầu thị trường.

“Ngoài ra, các thể chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy trình công nghệ liên quan đến phát triển nuôi biển cũng cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Đồng thời, cần quan tâm mạnh mẽ và liên tục hơn đến phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nuôi biển, để các tiến bộ công nghệ sớm mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Tiềm năng lớn, thách thức không nhỏ

Ông Ngô Thế Anh, Trưởng phòng Nuôi trồng Thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, nuôi biển Việt Nam đang phát triển mạnh tại các tỉnh, thành ven biển, với 4 nhóm đối tượng chính là cá biển, rong biển, nhuyễn thể và tôm hùm.

Tổng sản lượng nuôi biển đạt 832 nghìn tấn, tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 8,5%/năm giai đoạn 2020 - 2024. Các vùng trọng điểm gồm Khánh Hòa, Phú Yên, Kiên Giang, Quảng Ninh..., tạo ra giá trị xuất khẩu khoảng 900 triệu USD/năm. Những kết quả này là nền tảng, thể hiện rõ tiềm năng phát triển mạnh mẽ của ngành, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu sản phẩm thủy sản chất lượng cao đang gia tăng toàn cầu.

Nuôi biển Việt Nam đang phát triển mạnh tại các tỉnh, thành ven biển, với 4 nhóm đối tượng chính là cá biển, rong biển, nhuyễn thể và tôm hùm. Ảnh: Hồng Thắm.

Nuôi biển Việt Nam đang phát triển mạnh tại các tỉnh, thành ven biển, với 4 nhóm đối tượng chính là cá biển, rong biển, nhuyễn thể và tôm hùm. Ảnh: Hồng Thắm.

Cũng theo ông Ngô Thế Anh, Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng để phát triển nuôi biển. Về điều kiện tự nhiên, với bờ biển dài hơn 3.200 km, nhiều vùng nước sâu, kín gió, rất thuận lợi cho nuôi biển xa bờ và quy mô lớn. Đối tượng nuôi đa dạng, giá trị kinh tế cao, từ cá biển, nhuyễn thể đến rong biển.

Về chính sách và nhân lực, hệ thống pháp lý đã được củng cố bởi Luật Thủy sản, Luật Quy hoạch, Chiến lược phát triển kinh tế biển, cùng đội ngũ người dân ven biển cần cù, sáng tạo và giàu kinh nghiệm.

Thêm vào đó, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, cả xuất khẩu lẫn trong nước, đặc biệt nhờ du lịch và nhu cầu sản phẩm xanh, sạch.

Tuy nhiên, ngành vẫn đối mặt với nhiều rào cản lớn như: Hạ tầng kỹ thuật và công nghệ nuôi xa bờ còn hạn chế; rủi ro môi trường, dịch bệnh và tác động của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp; thiếu nguồn vốn đầu tư lớn và nhân lực chất lượng cao; xung đột sử dụng không gian biển giữa các ngành như du lịch, năng lượng, vận tải và nuôi trồng...

Minh bạch - trách nhiệm - bền vững

Mục tiêu chiến lược của ngành nuôi biển Việt Nam đến năm 2030 được xác định theo nguyên tắc “Minh bạch - Trách nhiệm - Bền vững” với 3 mục tiêu trọng tâm, gồm:

Phát triển nuôi biển thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, ứng dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường.

Đóng góp tích cực vào kinh tế biển và an ninh quốc phòng, thông qua phát triển nuôi trồng tại các vùng biển xa bờ.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giảm khai thác tự nhiên, tăng nuôi trồng và nâng cao giá trị gia tăng của thủy sản Việt Nam. Đây là định hướng cốt lõi, giúp giảm áp lực khai thác nguồn lợi tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời mở rộng không gian kinh tế xanh trên biển.

Một trong những mục tiêu trọng tâm đến năm 2030 là đưa nuôi biển trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, vận hành theo hướng công nghiệp, ứng dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường. Ảnh: Hồng Thắm.

Một trong những mục tiêu trọng tâm đến năm 2030 là đưa nuôi biển trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, vận hành theo hướng công nghiệp, ứng dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường. Ảnh: Hồng Thắm.

Để đạt được mục tiêu đó, ông Ngô Thế Anh cho biết, trong giai đoạn tới, ngành thủy sản xác định 4 định hướng phát triển lớn.

Một là, phát triển công nghiệp quy mô lớn, hình thành các vùng nuôi biển trọng điểm quốc gia, hiện đại hóa hệ thống lồng bè và cơ sở hạ tầng hậu cần.

“Cần đẩy mạnh công nghiệp hóa nuôi biển quy mô lớn thông qua quy hoạch và hình thành các vùng nuôi trọng điểm tại những khu vực có lợi thế. Đồng thời, việc hiện đại hóa hệ thống lồng bè và đầu tư hạ tầng hậu cần chuyên dụng phải được triển khai đồng bộ, nhằm bảo đảm năng lực sản xuất, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm thủy sản”, ông Ngô Thế Anh nhấn mạnh.

Hai là, đầu tư vào công nghệ lõi, tập trung nghiên cứu và sản xuất giống, thức ăn công nghiệp, công nghệ tuần hoàn khép kín và số hóa toàn diện quy trình nuôi.

Ba là, hình thành hệ sinh thái nuôi biển tích hợp, liên kết chặt chẽ các khâu trong chuỗi giá trị, từ sản xuất, chế biến, đến tiêu thụ hướng tới mô hình kinh tế biển đa giá trị.

Bốn là, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, giảm thiểu tác động môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.

TS. Phạm Anh Tuấn, Ủy viên Thường vụ Hiệp hội Thủy sản Việt Nam đề xuất lộ trình phát triển nuôi biển gồm hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (2025 - 2027) tập trung giải quyết các vướng mắc về thể chế, chính sách, tổ chức lại sản xuất nuôi biển vùng ven bờ, hoàn thiện, xây dựng các điều kiện cần thiết (khoa học công nghệ, mô hình nuôi, thị trường...) cho việc phát triển nuôi biển ở các vùng biển mở, xa bờ. Giai đoạn 2 (2028 - 2030), trên cơ sở những kết quả chuẩn bị ở giai đoạn 1, nhân rộng nuôi biển ở các vùng biển mở, xa bờ và tiếp tục hoàn thiện các điều kiện cần thiết cho phát triển nuôi biển bền vững.

Xem thêm
Công nghệ 4.0, trợ thủ đắc lực trong chăn nuôi an toàn sinh học

CẦN THƠ TP Cần Thơ đang tập trung phát triển đàn vật nuôi hướng sinh học, an toàn, ứng dụng công nghệ 4.0 nhằm phục vụ thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu bền vững.

Chấn chỉnh toàn diện công tác phòng, chống dịch bệnh đàn vật nuôi

NGHỆ AN UBND tỉnh Nghệ An ban hành Chỉ thị yêu cầu các địa phương, ngành chức năng tập trung cao độ, chấn chỉnh toàn diện công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi.

Nghệ An tự tin đạt trên 700.000 tấn lương thực vụ xuân 2026

Để hoàn thành mục tiêu vụ xuân 2026, ngành nông nghiệp Nghệ An xác định tăng cường áp dụng nền tảng khoa học công nghệ và sử dụng những bộ giống chất lượng cao.

Khuyến nông cộng đồng - dấu ấn lịch sử

Sau gần 4 năm thực hiện, toàn quốc đã thành lập được 5.187 tổ khuyến nông cộng đồng với 47.493 thành viên tham gia.

Cần chính sách riêng để phát triển thủy lợi nội đồng

Thủy lợi nội đồng đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Vì vậy, cần có chính sách riêng cho thủy lợi nội đồng.

Khoa học công nghệ là nền tảng phát triển nông nghiệp hiện đại

AN GIANG An Giang xác định khoa học công nghệ là nền tảng vững chắc cho nông nghiệp xanh, chất lượng cao, phát thải thấp, tạo động lực cho phát triển bền vững trong thời kỳ mới.

Vùng cao Nghệ An hưởng lợi lớn từ chính sách ERPA

Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) đã tạo hiệu ứng tích cực khắp vùng cao Nghệ An.

4 định hướng phát triển nuôi biển trọng tâm đến năm 2030
Thủy sản 6 giây trước