Giống thủy sản - yếu tố then chốt cho nuôi biển công nghiệp
Là đơn vị nghiên cứu về lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của khu vực miền Trung và Tây Nguyên, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản III (gọi tắt là Viện III) tiên phong nghiên cứu, chuyển giao nhiều công nghệ giống và quy trình kỹ thuật nuôi tiên tiến, góp phần quan trọng hiện thực hóa Chiến lược Nuôi biển Quốc gia.
Thời gian qua, Viện III đã nỗ lực trong nghiên cứu, sản xuất giống nhân tạo phục vụ nuôi biển. Ảnh: Kim Sơ.
Viện III đã trải qua giai đoạn hoạt động khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo đầy ấn tượng từ năm 2021 đến nay. Các nghiên cứu của Viện không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất thực tiễn mà còn đóng góp quan trọng vào sự phát triển ngành thủy sản khu vực miền Trung và cả nước, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang quyết tâm thực hiện Chiến lược phát triển nuôi biển bền vững theo Quyết định số 1664/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
PGS.TS Võ Văn Nha, Viện trưởng Viện III khẳng định: “Trong bối cảnh nguồn lợi hải sản tự nhiên ngày càng suy giảm và mục tiêu đưa nuôi trồng thủy sản trên biển đạt sản lượng 1,45 triệu tấn vào năm 2030, việc làm chủ công nghệ sản xuất giống là yếu tố then chốt, quyết định thành bại của Chiến lược nuôi biển".
Viện III đã làm chủ công nghệ sản xuất giống cầu gai sọ dừa. Ảnh: KS.
Đây là thực tế cấp thiết bởi hiện nguồn giống hải sản phục vụ nuôi biển của nước ta vẫn còn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên hoặc nhập khẩu, tiềm ẩn rủi ro về chất lượng di truyền, mầm bệnh và sự thiếu ổn định, chi phí cao. Giống chất lượng cao, có khả năng sinh trưởng nhanh và kháng bệnh tốt chính là “chìa khóa" nâng cao năng suất, giảm rủi ro, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có giá trị.
Nắm bắt được yêu cầu này, Viện III đã đẩy mạnh việc nghiên cứu và làm chủ công nghệ sản xuất giống. Trong giai đoạn 2021 - 2025, Viện đã chủ trì thực hiện 54 nhiệm vụ KHCN các cấp, trong đó có 14 nhiệm vụ cấp Nhà nước. Đáng chú ý, các nhà khoa học của Viện đã thành công trong nghiên cứu công nghệ sản xuất giống nhân tạo cho nhiều đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao để phục vụ nuôi biển như ghẹ, hải sâm, cá mú lai, cá chẽm, cua hoàng đế, hàu, trai ngọc, điệp seo, cầu gai sọ dừa...
Viện III đã chọn giống cá chẽm thế hệ G3 thành công. Ảnh: KS.
Viện cũng thành công trong việc chọn giống tôm thẻ chân trắng thế hệ G9 sinh trưởng nhanh, kháng bệnh và chọn giống cá chẽm thế hệ G3. TS Nha cho biết, những nỗ lực này đã giúp Viện chủ động trong việc chuyển giao, hỗ trợ công nghệ sản xuất giống cho các doanh nghiệp và địa phương có nhu cầu, qua đó góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi và ổn định nguồn cung con giống cho nhu cầu sản xuất.
Hoàn thiện chuỗi công nghệ đồng bộ
Không dừng lại ở con giống, Viện III còn tập trung phát triển các giải pháp KHCN đồng bộ nhằm hình thành chuỗi giá trị nuôi trồng thủy sản hoàn chỉnh, tiến tới mục tiêu nuôi biển công nghiệp hiện đại và bền vững.
Trong lĩnh vực công nghệ nuôi biển, Viện đã nghiên cứu thành công các quy trình theo hướng an toàn sinh học. Tiêu biểu là việc làm chủ hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) trong nuôi tôm hùm và ốc hương hay phát triển công nghệ nuôi tôm hùm bằng lồng 2 tầng giúp tối ưu hóa diện tích và kiểm soát môi trường nuôi.
Viện III đã làm chủ công nghệ sản xuất giống hải sâm cát. Ảnh: KS.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về dinh dưỡng và sức khỏe vật nuôi cũng được ưu tiên. Viện đã nghiên cứu thành phần dinh dưỡng và sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho nhiều đối tượng nuôi, bao gồm thức ăn cho ốc hương từ nguyên liệu Việt Nam và thức ăn chuyên biệt cho tôm hùm trong hệ thống RAS.
Đặc biệt, nhằm giải quyết nỗi lo lớn nhất của người nuôi là vấn đề dịch bệnh, Viện đã xây dựng thành công quy trình kiểm soát bệnh sữa trên tôm hùm nuôi lồng, nghiên cứu tạo kháng thể IgY phòng trị bệnh gan tụy cấp trên tôm nước lợ, chế tạo thành công vaccine vô hoạt phòng bệnh do vi khuẩn Streptococcus iniae trên cá chẽm, mở ra hướng phòng ngừa chủ động và bền vững.
Thời gian qua, Viện III đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nuôi biển khu vực Nam Trung Bộ. Ảnh: KS.
Viện cũng thường xuyên thực hiện quan trắc và cảnh báo môi trường định kỳ tại các vùng nuôi trọng điểm khu vực Miền Trung và Tây Nguyên, cung cấp thông tin và giải pháp xử lý kịp thời, giảm thiểu thiệt hại cho người dân.
Chuyển giao và hội nhập quốc tế
Những kết quả nghiên cứu đã được Viện III nhanh chóng chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, tạo ra tác động tích cực trên diện rộng. Giai đoạn 2021 - 2025, Viện đã được công nhận 1 bằng sáng chế, 2 giải pháp hữu ích và 14 tiến bộ kỹ thuật, điển hình là quy trình nuôi thương phẩm cá chẽm và quy trình kiểm soát bệnh sữa trên tôm hùm.
Việc hợp tác trong nước và quốc tế được xem là đòn bẩy để chuyển giao công nghệ. Viện III đã liên kết chặt chẽ với các viện, trường đại học và nhiều doanh nghiệp lớn để chuyển giao, hỗ trợ công nghệ sản xuất giống các đối tượng cá mú lai, ốc hương, cua biển, cầu gai sọ dừa và ứng dụng các quy trình nuôi tôm hùm, ốc hương, cua lột cho 13 doanh nghiệp, đơn vị trong nước.
Cá mú lai (cá mú Trân Châu) được người nuôi ưa chuộng, thả nuôi nhiều. Ảnh: KS.
Đặc biệt, Viện đã triển khai 6 dự án hợp tác quốc tế với các trường đại học của Úc như Sunshine Coast và James Cook, tập trung vào các thế mạnh nghiên cứu như công nghệ nuôi tôm hùm, cá mú lai, trai ngọc. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực nghiên cứu mà còn đưa các tiêu chuẩn quốc tế vào ngành thủy sản Việt Nam.
Chất lượng nghiên cứu của Viện III được khẳng định qua việc công bố 22 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín, xuất bản 2 quyển sách, 1 tuyển tập các công trình nghiên cứu KHCN (2014 - 2024) của Viện và 74 bài báo ở các tạp chí uy tín trong nước trong giai đoạn 2021 - 2025, góp phần khẳng định vị thế của Viện trong ngành thủy sản khu vực và toàn cầu.




























