Canh tác biển bao hàm nhiều giá trị
PGS-TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam tự hào chia sẻ, Việt Nam có lẽ là quốc gia duy nhất trên thế giới gọi Tổ quốc bằng hai chữ “đất nước”. Cách gọi “sơn hà” hay “giang sơn” - đều là "đất" và "nước". Hai yếu tố ấy cấu thành nên sự sống, bản sắc và tâm hồn của dân tộc.
Nhưng trong hành trình phát triển, dường như chúng ta đã và đang quan tâm quá nhiều đến phần đất mà xem nhẹ đi phần nước. Đối với phần nước, người ta nghĩ đến việc đánh bắt, vơ vét sản vật trời cho. Vì thế đã đến lúc phải chú trọng đến canh tác phần nước, không chỉ dừng ở khai thác biển. Canh tác biển là yêu cầu tiên quyết để đất nước có thể tiến lên tốc độ tăng trưởng hai con số trong kỷ nguyên mới.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam nhấn mạnh: "Nuôi biển không chỉ là nuôi trồng thủy sản trên biển mà nó còn mang ý nghĩa rộng hơn, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, còn là môi trường, hệ sinh thái, xã hội, cộng đồng và văn hóa". Ảnh: Hồng Thắm.
Canh tác biển nghĩa là nuôi và trồng các loài thủy sản, nhưng trên hết là nuôi chính môi trường, hệ sinh thái và các giá trị tự nhiên trong đó. Người dân nuôi trồng thủy sản từ lâu đã có câu “nuôi nước trước nuôi cá”.
Nuôi biển thực chất cũng là “nuôi nước” - nuôi dưỡng môi trường, gìn giữ sự cân bằng của hệ sinh thái và cộng đồng sinh học biển. Khi môi trường nước trong lành, ổn định và lành mạnh, cá mới sinh trưởng được, biển mới hồi sinh. Cho nên nuôi biển không chỉ là nuôi trồng thủy sản trên biển mà nó còn mang ý nghĩa rộng hơn, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, còn là môi trường, hệ sinh thái, xã hội, cộng đồng và văn hóa.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam: “Không cần đưa quá nhiều người ra biển, mà phải đưa công nghệ, dữ liệu và kỹ thuật số ra biển. Canh tác trên biển nhưng quản lý trên bờ - đó chính là xu hướng canh tác biển hiện đại”.
Ông Dũng cho hay, thực tế suốt 30 năm qua, chúng ta vẫn kêu gọi ngư dân tiến ra biển, nhưng mới dừng ở lời kêu gọi. Chưa có chính sách cụ thể, chưa có quy chuẩn, tiêu chuẩn hay luật lệ rõ ràng, cũng chưa có hình thức tổ chức nào đủ mạnh để đưa người dân ra canh tác biển một cách bài bản. Bức tranh nuôi biển hiện nay vẫn manh mún, thủ công, công nghệ thấp, cạnh tranh nhỏ lẻ, gây hại cho môi trường và chính mình.
Trong khi đó, trên thế giới, Liên hợp quốc đã xác định rõ: “Thập niên này là thập niên của biển và đại dương”, với tiêu chí 14, còn gọi là Mục tiêu Phát triển Bền vững 14 (SDG 14) "Life below water" (Cuộc sống dưới nước), có nội dung chính là bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển vì mục tiêu phát triển bền vững. Mục tiêu này tập trung vào việc ngăn chặn ô nhiễm, giảm thiểu tác động của axit hóa đại dương, quản lý nghề cá bền vững và bảo vệ các hệ sinh thái biển.
Câu hỏi lớn nhất đặt ra cho Việt Nam là: “Làm thế nào để chuyển đổi từ tình trạng nuôi biển manh mún, tự phát hiện nay sang một mô hình canh tác biển bền vững, hiệu quả về kinh tế, thân thiện với môi trường và giàu giá trị xã hội, văn hóa? Đó không chỉ là câu chuyện về sinh kế, mà là câu chuyện về tương lai của một đất nước mang trong mình cả đất và nước”, PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng trăn trở.
6 nhóm giải pháp - mở lối cho canh tác biển Việt Nam
Để có thể thực hiện được khát vọng canh tác biển, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, từ thể chế, vốn, hạ tầng đến công nghệ và con người. Theo đó Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đề xuất và chính thức kiến nghị 6 nhóm giải pháp là nền tảng cho hành trình ấy.
Một là, vấn đề quyền sử dụng khu vực biển. Muốn người dân gắn bó với biển, làm giàu từ biển, trước tiên phải giải quyết quyền sử dụng tư liệu sản xuất - tức là quyền được sử dụng hợp pháp, đủ dài và canh tác trên một khu vực biển. Nếu trên đất liền có “sổ đỏ” - quyền sở hữu đất, thì trên biển cũng cần có “sổ xanh” - quyền sử dụng khu vực biển. Khi và chỉ khi được giao quyền sử dụng lâu dài khu vực biển, người dân mới yên tâm đầu tư.
Đối với đất, nếu chỉ giao quyền sử dụng 1 năm thì người dân chỉ dựng lều; giao 10 năm thì họ dựng nhà cấp 4; nhưng giao 50 năm thì họ xây nhà cao tầng ngay. Với quyền sử dụng khu vực biển cũng tương tự như thế. Cho đến nay các địa phương chỉ tạm giao quyền sử dụng khu vực biển cho dân vài năm một, thì người dân chỉ làm bè nuôi bằng các vật liệu tận dụng, không thể đầu tư bài bản.
Hiện nay, thủ tục giao khu vực biển cho dân để nuôi biển thực hiện theo Nghị định 11/2021/NĐ-CP, được điều chỉnh theo Nghị định 65/2025/NĐ-CP của Chính phủ (trong đó có việc tăng thời hạn giao biển cho nuôi trồng thủy sản từ 30 năm lên 50 năm), với một số thủ tục còn phiền phức, tốn nhiều thời gian của các người nuôi biển. Đây là nút thắt lớn nhất cần tháo gỡ.
Biển Việt Nam rộng lớn hơn ba lần đất liền, nhưng chúng ta mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ. Phần còn lại đang chờ được canh tác, được đầu tư, được đánh thức bằng tầm nhìn mới. Ảnh: Hồng Thắm.
Hai là, người dân bao giờ cũng thiếu vốn. Khi quyền sử dụng khu vưc biển được xác lập,“sổ xanh” cũng sẽ trở thành tài sản có giá trị pháp lý, giúp người dân có thể góp vốn, thế chấp để vay vốn ngân hàng… Có như vậy người dân mới có thể đầu tư hạ tầng và những chi phí sản xuất thường xuyên.
Ba là, để chuyển đổi vùng nuôi biển nhỏ lẻ manh mún hiện nay thành các vùng nuôi có quy hoạch, được thiết kế cẩn thận, cần phải thành lập các cụm công nghiệp và khu công nghiệp nuôi biển, với hai bộ phận là trên biển và trên bờ.
Ông Dũng phân tích, khi các cụm công nghiệp này hình thành, doanh nghiệp, hợp tác xã và ngư dân sẽ được thuê hạ tầng đã làm sẵn, giảm áp lực đầu tư lồng bè, tập trung vốn vào sản xuất và kinh doanh. Lao động được chuyên nghiệp hóa, sử dụng các công nghệ hiện đại để theo dõi vật nuôi, ngư dân không phải ngủ lại trên biển để canh giữ trại nuôi, nhờ đó giảm ô nhiễm sinh hoạt và rác thải trên mặt nước. Trong các cụm công nghiệp nuôi biển này, quy trình canh tác biển sẽ tuân theo tiêu chuẩn chung, hình thành sản lượng hải sản lớn, tập trung, đồng chất lượng - đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và đánh giá theo chuẩn quốc tế.
Không chỉ vậy, mô hình cụm công nghiệp và khu công nghiệp nuôi biển còn có ý nghĩa đặc biệt về chủ quyền. Khi được xây dựng tại rìa vùng đặc quyền kinh tế, chúng sẽ như những “cột mốc sống” trên biển, khẳng định sự hiện diện và chủ quyền của Việt Nam trên phần nước rộng gấp ba lần diện tích đất liền - hơn 1 triệu km² so với khoảng 328.000 km² đất liền.
Bốn là, thay đổi cách đánh giá tác động môi trường. Hiện nay, Việt Nam yêu cầu doanh nghiệp, người dân tự lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dù chưa được cấp phép, chưa triển khai nuôi trồng, dẫn đến nhiều bất cập, trong khi đây là một hoạt động khoa học phức tạp. Ở nhiều nước, chính cơ quan quản lý nhà nước mới là đơn vị thực hiện nghiên cứu, xác định tải trọng môi trường của từng vùng biển rồi phân bổ hợp lý cho các đơn vị nuôi trồng. Vì vậy, Việt Nam cần ban hành các tiêu chuẩn và quy chuẩn cụ thể về tác động môi trường trong canh tác biển, tránh đẩy gánh nặng này lên vai người dân.
Năm là, đẩy mạnh khoa học công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Hiện nay, Việt Nam chưa có chương trình đào tạo kỹ sư chuyên về nuôi trồng thủy sản công nghiệp trên biển. Vì vậy, cần sớm đầu tư cho nghiên cứu, chuyển đổi số, đào tạo nhân lực và đổi mới sáng tạo.
Giải pháp cuối cùng và cũng mang tính nền tảng, là hoàn thiện hệ thống quản lý. Hiện nay chúng ta đang quản lý lĩnh vực này rất lỏng lẻo theo hệ hành chính, trong khi canh tác biển là lĩnh vực kỹ thuật đòi hỏi có tiêu chuẩn, quy chuẩn cụ thể để quản lý thực tế.
Biển Việt Nam rộng lớn hơn ba lần đất liền, nhưng chúng ta mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ. Phần còn lại đang chờ được canh tác, được đầu tư, được đánh thức bằng tầm nhìn mới.
Canh tác biển không chỉ là nuôi trồng thủy sản, mà còn là canh tác tương lai, canh tác hòa bình, canh tác niềm tự hào của một dân tộc biết trân trọng từng giọt nước, từng tấc đất của mình. Bởi "đất" và "nước", cũng như con người và biển cả, mãi mãi hòa quyện trong một tên gọi thiêng liêng - "Việt Nam".
Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chuỗi sự kiện kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12/2025. Trong đó, trọng tâm là lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, tổ chức sáng 12/11/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hơn 1.200 đại biểu tham dự. Báo Nông nghiệp và Môi trường sẽ truyền hình trực tiếp sự kiện này.















![Dựng 'thành lũy' trước thiên tai: [Bài 3] Xua tan ám ảnh lũ lụt sông Hồng](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/phucpm/2025/11/07/3419-photoznewsvn-uploaded-dqmblcvo-2024_09_10-_a11-092544_142.jpg)