
Lồng nuôi biển của Nguyễn Bá Ngọc đang phải quay trở lại bờ. Ảnh: Hoàng Anh.
15 tháng sau khi hạ thủy lồng HDPE nuôi mực và ốc hương lớn nhất thế giới ở vùng biển Thanh Hải (tỉnh Ninh Thuận cũ), hôm nay Nguyễn Bá Ngọc, CEO Công ty Cổ phần Mực nhảy Biển Đông, lại đang tất tả kéo quay trở lại bờ.
Quen biết Ngọc từ lâu, chia sẻ, đồng hành cùng anh cả trong khát vọng và hành trình nuôi biển, tôi hiểu rằng với “người mở biển” đó là quyết định khó khăn, nếu không muốn nói là đau đớn.
1.
Nguyễn Bá Ngọc đến với vùng biển hở ở Thanh Hải vào 5 năm trước. Hành trang mang theo là quy trình nuôi mực thương phẩm tự nhiên mà anh đã thành công ở vịnh Vĩnh Hy và khát vọng “Cùng ngư dân Việt - Tạo giá trị khác biệt”. Khát vọng như là lẽ sống, được Ngọc xăm trên bầu ngực vạm vỡ của một gã trai miền biển, bên cạnh là hình ảnh logo con tàu căng buồm chở bản đồ đất nước vượt sóng ra khơi. Anh nói rằng, đó không phải là hình xăm cho vui mà là một cam kết bằng máu thịt, rằng mọi bước đi của chúng tôi đều phải gắn liền với sự đồng hành, tôn trọng và lợi ích của bà con ngư dân.
5 năm ấy - cùng với người dân địa phương và một vài cộng sự, Nguyễn Bá Ngọc đã gầy dựng nên hệ sinh thái nuôi biển với khoảng 13.000m2 lồng nuôi và hơn 151.000m3 thể tích nuôi. Toàn bộ hệ thống lồng nuôi bằng vật liệu HDPE đều do Ngọc thiết kế, hoàn thiện sau nhiều năm trời nghiên cứu, thử nghiệm. Một hệ sinh thái nuôi biển bền vững, hài hòa dần được hình thành trên vùng biển hở mà trước đó không ai dám nghĩ đến chuyện nuôi trồng, còn sinh kế của người dân chủ yếu tận diệt bằng nghề giã cào và kích điện.
5 năm ấy - nếu nói gian lao, vất vả sẽ không thể nào kể xiết. Đối mặt với sóng gió vùng biển hở, người bình thường ngồi trên tàu lớn đã thấy khó khăn chứ đừng nói là ăn ngủ, ngụp lặn tìm cách nuôi mực tự nhiên. Nếu nói kinh tế sẽ là “tiền tấn” khi Nguyễn Bá Ngọc phải cắm nhà cửa, vay mượn đủ đường để hiện thực giấc mơ chưa ai có thể làm ở vùng biển thuộc tỉnh Ninh Thuận cũ. Thậm chí có những lần, Ngọc kể, vừa lặn biển mày mò nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ của lồng nuôi vừa suy nghĩ xem lúc ngoi lên sẽ điện thoại mượn tiền ở chỗ nào và gần như không một ai tin anh có thể làm được.

Nguyễn Bá Ngọc, người mở biển. Ảnh: Hoàng Anh.
Vậy mà Nguyễn Bá Ngọc đã thành công. 5 năm là quá đủ để anh thử nghiệm với quy trình kỹ thuật nuôi biển tích hợp đa tầng, đa giá trị vừa có thể ứng phó với diễn biến bất thường của thiên tai. Một hệ sinh thái nuôi biển đã vượt qua mọi khó khăn, nghi ngại về yếu tố thiên tai và khoa học để bước đầu hình thành mô hình nuôi biển kiểu mẫu ở vùng biển Thanh Hải.
Chỉ riêng chiếc lồng nuôi biển bán tự nhiên nuôi mực kết hợp nuôi ốc hương ở tầng đáy bằng vật liệu HDPE với đường kính 100m, chu vi 314.16m, diện tích 7.850m2, thể tích 102.000m3 nước… đã trở thành lồng nuôi biển HDPE lớn nhất thế giới. Ngọc tính toán: Lồng nuôi khổng lồ này mỗi năm có thể thả nuôi 100.000 con mực giống và 5,5 triệu con ốc hương. Căn cứ kết quả nuôi thí điểm chỉ cần đạt tỷ lệ 50/50 thì sau 8 tháng sẽ thu khoảng chừng 50 tấn mực và ốc hương chừng 55 tấn.
Nên nhớ rằng, đi đầu về công nghệ nuôi biển trên thế giới là Na Uy. Tuy nhiên quốc gia này cũng chỉ mới có những lồng nuôi với kích cỡ đường kính đạt 55 - 56m, chi phí sản xuất cực kỳ tốn kém, lên tới vài trăm ngàn USD/lồng. So với họ, lồng nuôi công nghệ HDPE do Công ty Cổ phần Mực nhảy Biển Đông trực tiếp thiết kế, thi công có diện tích gấp đôi nhưng chi phí chỉ bằng một nửa.
Nhưng thành công lớn nhất, Nguyễn Bá Ngọc tự sự, rằng tư duy về nuôi biển của cộng đồng bước đầu đã có sự thay đổi. Giống như cái cách mà Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan từng chia sẻ với anh về con đường của Mực nhảy Biển Đông: Em đang chọn sống cùng biển bằng cách không làm đau biển nữa, đang xây là một đại dương mới, nơi con người và thiên nhiên cùng nhau sinh tồn, cùng nhau lớn lên.
Trên hành trình đó, Ngọc không làm “ông chủ của biển”, anh chỉ nhận mình là “người mở biển”, nghĩa là mở lòng để hiểu biển, mở đầu óc để khai thác biển theo cách mới, và mở con đường cho nhiều người khác cùng đi. Anh mong muốn sẽ có một khu công nghiệp biển, không chỉ là nơi nuôi trồng thủy sản, mà là nơi dạy nghề, đào tạo kỹ thuật, huấn luyện nghề biển hiện đại, nơi bà con học xong là ra biển không còn đơn độc. Để bất cứ ai mỗi khi đứng trước biển đều có thể tự hào: Chúng tôi làm nghề biển, nhưng không làm nghèo biển. Chúng tôi sống với biển, chứ không sống trên lưng của biển.
Một hành trình thật đẹp và nhiều ý nghĩa. Chỉ có điều, giống như bài toán của nhiều giấc mơ nuôi biển khác, những vướng mắc, rào cản pháp lý và thủ tục hành chính đã và đang tạo nên những đợt “sóng ngầm” ngăn cản “hải trình xanh” của Ngọc.

Ông Trần Quốc Nam, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận cũ, hiện là Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa, thăm mô hình nuôi biển của Nguyễn Bá Ngọc. Ảnh: Phương Chi.
Năm ngoái, khi nghe Nguyễn Bá Ngọc khoe đã nghiên cứu thành công mô hình nuôi mực quy mô công nghiệp, và rằng đích đến của hải trình xanh với hai giá trị cốt lõi là hệ sinh thái môi trường biển - đời sống người ngư dân đã sắp thành, chúng tôi không khỏi khấp khởi, mừng cho anh và hàng vạn ngư dân miền biển Thanh Hải.
Lúc ấy, hồ sơ xin cấp phép 100ha nuôi biển của Nguyễn Bá Ngọc đã đi đến bước cuối cùng. Rất phù hợp với định hướng phát triển ngành thủy sản của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn 2050 là sẽ xây dựng “khu công nghiệp nuôi biển”, phát triển nuôi biển đa mục tiêu: đảm bảo quy hoạch, vùng nuôi ổn định; đảm bảo phát triển bền vững bảo vệ môi trường; khai thác hiệu quả diện tích mặt nước, định hướng con nuôi có giá trị kinh tế; ứng dụng nuôi biển công nghệ cao; xây dựng Ninh Thuận là vùng trọng điểm con giống thủy sản số 1 của cả nước, xóa bỏ tình trạng nuôi thả tự phát, manh mún, không theo quy hoạch…

Dự án nuôi biển hàng triệu đô la Mỹ của Nguyễn Bá Ngọc cùng với biết bao công sức nghiên cứu đang bị mắc cạn. Ảnh: Hoàng Anh.
Tại buổi phỏng vấn Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận lúc đó, ông Trần Quốc Nam chia sẻ với tôi: “Ngọc Biển Đông” là người có hoài bão lớn, có khát vọng lớn, nói thật và làm thật. Ninh Thuận cần những người tiên phong như Ngọc cũng như cần những nhà đầu tư lớn đủ tiềm lực, năng lực, khát vọng, trí tuệ… để phát triển nền kinh tế nuôi biển, đặc biệt là trên vùng biển hở…
Từ khát vọng của bản thân cũng như sự ủng hộ của nhiều lãnh đạo Trung ương và địa phương, cứ ngỡ hải trình xanh của Nguyễn Bá Ngọc sẽ không thể nào bị cản trở. Vậy mà hôm nay, “con tàu mang khát vọng mở biển” đang phải quay đầu, mang theo cả một hệ sinh thái nuôi biển đã hoàn thiện đi vào bờ. Lý do “chưa có phép”, nghe thật đơn giản mà nặng tựa núi đè, đến cả người ngoài cuộc như chúng tôi cũng thấy nghẹn trong lồng ngực.
“Trong suốt quá trình triển khai thử nghiệm lồng nuôi mực khổng lồ, chúng tôi luôn ý thức được ranh giới mong manh giữa hoạt động nuôi trồng và ngư trường đánh bắt truyền thống. Việc chậm trễ trong cấp quỹ nước và thủ tục pháp lý đồng nghĩa với việc dự án có thể chồng lấn lên không gian sinh kế của bà con.
Chúng tôi không muốn bất kỳ sự va chạm nào xảy ra. Biển phải là nơi gắn kết, không phải nơi chia rẽ. Vì thế, chúng tôi chọn cách rút lồng nuôi vào bờ - để ngư dân có thêm không gian mưu sinh, để nhà nước có thời gian hoàn thiện hành lang pháp lý, và để ngày trở lại của chúng tôi sẽ được xây trên nền tảng vững chắc, minh bạch”, Nguyễn Bá Ngọc tự sự.
Nói rồi mắt anh chợt nhìn về những chiếc lồng nuôi biển khổng lồ bây giờ đã nằm bờ, dù thoáng đôi chút xót xa nhưng vẫn toát lên sự kiên định và niềm tin sắt đá rằng chúng sẽ sớm quay trở về với biển.

Con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa. Ảnh: Hoàng Anh.
2.
Thời điểm Nguyễn Bá Ngọc chuẩn bị kéo hệ sinh thái nuôi biển vào bờ, cá nhân anh và Công ty Cổ phần Mực nhảy Biển Đông đã nhận được một email từ đối tác quốc tế, đề nghị mua lại công nghệ nhân giống và nuôi mực với mức giá 7,5 triệu USD.
Ngọc bảo: Đây là minh chứng rõ ràng rằng công nghệ mà chúng tôi đang phát triển có giá trị thực sự, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thị trường quốc tế. Nhưng thay vì bán đi, chúng tôi quyết định giữ lại - bởi khát vọng của tôi và Mực nhảy Biển Đông không chỉ dừng lại ở việc thương mại hóa công nghệ, mà là xây dựng một ngành nuôi biển hiện đại, gắn kết ngư dân Việt và tạo ra giá trị khác biệt ngay trên quê hương mình.
Lựa chọn đó có nghĩa là sứ mệnh với biển của Nguyễn Bá Ngọc và Mực nhảy Biển Đông vẫn không thay đổi. Như lời khẳng định đầy gan góc, kiên định và mang đậm phong cách của Ngọc: rút về hôm nay không có nghĩa là từ bỏ hẳn. Trái lại, nó khẳng định rõ hơn khát vọng mà họ đã theo đuổi: kiến tạo những “làng nuôi biển chia sẻ”, nơi ngư dân không chỉ đánh bắt mà còn có thể tham gia nuôi trồng hiện đại, cùng hưởng lợi từ giá trị kinh tế biển.
Một “cơn bão” khác mà Nguyễn Bá Ngọc phải đối mặt, không đến từ biển như quy luật của muôn đời, nhưng Ngọc vẫn tin rằng tương lai của kinh tế biển Việt Nam không thể chỉ dựa vào khai thác, mà cần sự kết hợp hài hòa giữa nuôi trồng - bảo tồn - du lịch - dịch vụ hậu cần. Và để làm được điều đó, cần sự chung tay của doanh nghiệp, ngư dân và đặc biệt là nhà nước trong việc định hình cơ chế, quy hoạch vùng nuôi minh bạch.

Ngư dân Thanh Hải đồng hành cùng Nguyễn Bá Ngọc. Ảnh: Hoàng Anh.
Đối mặt với “cơn bão không đến từ biển” đó, Nguyễn Bá Ngọc hiểu rằng phát triển kinh tế phải đi đôi với quản lý, đổi mới phải gắn liền với các chính sách quy định của pháp luật. Một mặt CEO trẻ tuổi của Mực nhảy Biển Đông chia sẻ với những khó khăn, vướng mắc của cơ chế, nhưng mặt khác anh cũng mong mỏi và kiến nghị các nhà quản lý rằng nếu chậm trễ trong cấp quỹ nước, trong thiết lập khung pháp lý cho nuôi biển xa bờ, thì không chỉ Mực nhảy Biển Đông - một doanh nghiệp dám tiên phong nuôi biển đang bị ảnh hưởng, mà cơ hội phát triển của cả ngành kinh tế biển Việt Nam cũng sẽ bị bỏ lỡ.
“Chúng tôi mong muốn các cơ quan quản lý nhìn nhận rằng, việc mở đường cho nuôi biển không chỉ là cấp phép cho một dự án, mà là mở ra một hướng đi mới cho ngành kinh tế biển Việt Nam. Đây là thời điểm cần quyết liệt, minh bạch và đồng hành cùng doanh nghiệp, để chúng tôi có thể biến khát vọng thành hiện thực”, Nguyễn Bá Ngọc khẩn thiết.

Hải trình xanh của Nguyễn Bá Ngọc. Ảnh: Hoàng Anh.
Sự khẩn thiết ấy, chúng tôi cũng được nghe thêm từ những ngư dân bám biển, nghe cộng đồng nuôi biển ở Thanh Hải những người nhiều năm qua đã gắn bó với Nguyễn Bá Ngọc và dần thay đổi tư duy sinh sống với biển hài hòa hơn.
Ông Đỗ Văn Nhụy, một ngư dân vùng biển Thôn Mỹ Hiệp (nay là xã Vĩnh Hải, tỉnh Khánh Hòa) tâm sự rằng: “Chúng tôi biết Ngọc và Mực nhảy Biển Đông đã đầu tư tâm huyết và tiền bạc để nuôi biển ở đây. Khi thấy họ sẵn sàng kéo lồng vào bờ để nhường lại ngư trường cho bà con, chúng tôi rất trân trọng. Đây là cách làm có trước có sau, tôn trọng ngư dân. Nếu sau này Nhà nước cấp mặt nước rõ ràng, chúng tôi cũng mong được cùng họ tham gia nuôi trồng, vừa giữ biển, vừa làm ăn lâu dài”.
Những lời mộc mạc ấy không chỉ là sự sẻ chia với Nguyễn Bá Ngọc mà còn là minh chứng rõ ràng rằng, khi doanh nghiệp dám đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích trước mắt thì sự đồng thuận xã hội sẽ là sức mạnh lớn nhất cho hành trình dài hạn.

Mong rằng chính quyền tỉnh Khánh Hòa sau sáp nhập sẽ lắng nghe và sớm có giải pháp “cởi trói”, để Mực nhảy Biển Đông có thể hiện thực lời thề với biển. Ảnh: Hoàng Anh.
Giá trị ấy cũng là niềm tin và động lực để Nguyễn Bá Ngọc và Mực nhảy Biển Đông “lùi một bước” chứ không phải là rút lui hay dấu chấm hết trên hành trình nuôi biển. Kéo lồng nuôi biển lớn nhất thế giới vào bờ, hành động ấy Nguyễn Bá Ngọc coi chỉ là dấu phẩy, một bước lùi để có thể tiến xa hơn, vững chắc hơn và đúng pháp lý hơn.
Để khi hành lang pháp lý mở ra đầy đủ, khi ranh giới giữa ngư trường của người dân và vùng nuôi của doanh nghiệp được xác lập, Nguyễn Bá Ngọc và Mực nhảy Biển Đông sẽ ra biển và đi tiếp hải trình xanh, bằng niềm tin, sức mạnh và trách nhiệm lớn lao hơn bao giờ hết.
Khi đó Nguyễn Bá Ngọc sẽ tiếp tục lời thề với biển đã được khắc vào da thịt, như một lẽ sống: Không bao giờ quay lưng với biển, càng không thể quay lưng với ngư dân.
Mong rằng chính quyền tỉnh Khánh Hòa sau sáp nhập sẽ lắng nghe và sớm có giải pháp “cởi trói”, để Mực nhảy Biển Đông có thể hiện thực lời thề với biển.