Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”
Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý” với mục đích tạo cơ hội trao đổi giữa các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và truyền thông về các tiến bộ công nghệ, khung pháp lý quốc tế, xu hướng hợp tác công - tư và định hướng phát triển chính sách phù hợp tại Việt Nam, cụ thể như sau:
Thời gian: Bắt đầu từ 8h00 - 11h30, ngày 18/10/2025.
Tham dự trực truyến qua Zoom xin mời bấm vào đây
Hoặc bằng Zoom ID: 970 7448 2896; Mật mã: 18102025.
Các nhà khoa học trong nước đã làm chủ được công nghệ chỉnh sửa gen trên nhiều loại cây trồng.
Hướng tới những giống lúa thông minh
Trong bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức từ biến đổi khí hậu, dịch bệnh phức tạp và áp lực an ninh lương thực, việc nâng cao khả năng chống chịu của cây trồng trở thành yếu tố then chốt đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ an ninh lương thực quốc gia.
Giống lúa Bắc thơm 7 và TBR225 là một trong những giống chủ lực của miền Bắc, nổi tiếng nhờ năng suất cao, chất lượng ổn định và phù hợp với nhiều vùng sinh thái. Tuy nhiên, các giống này có hạn chế lớn là mẫn cảm với bệnh bạc lá - một trong những bệnh nguy hiểm nhất trên cây lúa, gây thất thu nghiêm trọng cho nông dân.

Dòng lúa được chỉnh sửa gen có khả năng kháng phổ rộng với nhiều chủng vi khuẩn bạc lá trong nước. Ảnh: Hùng Khang.
Trước thực tế đó, Viện Di truyền nông nghiệp đã triển khai dự án ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen nhằm nâng cao khả năng kháng bệnh bạc lá cho giống lúa Bắc thơm 7 và TBR225. Đây là một trong những công trình tiên phong tại Việt Nam về áp dụng công nghệ chỉnh sửa gen trên cây trồng, mở ra hướng đi mới cho ngành chọn tạo giống hiện đại.
TS Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp) cho biết: “Chúng tôi đã ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen để cải thiện tính kháng bạc lá của giống TBR225 và Bắc thơm7. Kết quả bước đầu cho thấy các dòng lúa được chỉnh sửa gen có khả năng kháng bệnh tốt, kháng phổ rộng với nhiều chủng vi khuẩn bạc lá trong nước”.
Làm rõ sự khác biệt giữa chỉnh sửa gen và biến đổi gen, TS Phương cho biết: “Biến đổi gen là đưa một gen ngoại lai từ sinh vật khác vào cây trồng để tạo ra tính trạng mới. Còn chỉnh sửa gen không thêm gen bên ngoài mà can thiệp trực tiếp vào gen nội tại để có được các tính trạng mong muốn. Vì vậy, sản phẩm cuối cùng không chứa DNA ngoại lai, tương tự như giống lai truyền thống”.

TS Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử, Viện Di truyền Nông nghiệp. Ảnh: Hùng Khang.
Trong nghiên cứu này, nhóm đã xác định các gen mẫn cảm, những gen khiến cây dễ bị vi khuẩn tấn công. Bằng công nghệ CRISPR/CAS9, các gen này được vô hiệu hóa, giúp cây mất đi “cửa ngõ” cho vi khuẩn xâm nhập và kháng bệnh hiệu quả.
Thành công bước đầu không chỉ mở ra triển vọng lớn trong việc cải tiến giống lúa TBR225 và Bắc thơm 7 mà còn đặt nền móng cho việc ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen trong chọn tạo giống cây trồng tại Việt Nam, hướng tới những giống lúa thông minh, xanh và bền vững hơn trong tương lai.
Cần sớm có hành lang pháp lý
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học toàn cầu, kỹ thuật chỉnh sửa hệ gen đang được xem là một trong những công cụ đột phá của thế kỷ XXI, giúp rút ngắn thời gian chọn tạo giống, đồng thời tăng năng suất và khả năng thích ứng của cây trồng trước biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, để công nghệ này được ứng dụng hiệu quả và an toàn trong sản xuất, việc xây dựng hành lang pháp lý phù hợp và minh bạch là yêu cầu cấp thiết.
Theo PGS.TS Khuất Hữu Trung, Phó Viện trưởng phụ trách khoa học - Viện Di truyền Nông nghiệp, một trong những tiêu chí quan trọng trong quản lý cây trồng chỉnh sửa gen là xác định xem phương pháp đó có tạo ra protein mới hay là không?

PGS.TS Khuất Hữu Trung, Phó Viện trưởng phụ trách khoa học, Viện Di truyền nông nghiệp. Ảnh: Quang Dũng.
“Bản chất của chỉnh sửa gen là can thiệp vào DNA để thay đổi cấu trúc hoặc chức năng protein nhằm tạo ra tính trạng mong muốn”, ông Trung phân tích.
Kỹ thuật chỉnh sửa gen hoạt động dựa trên cơ chế cắt đứt DNA tại những vị trí xác định chính xác, sau đó tận dụng khả năng tự sửa chữa của tế bào thực vật để hình thành tính trạng mới. Quá trình này tương tự phương pháp gây đột biến truyền thống bằng hóa chất hoặc tia phóng xạ nhưng chính xác hơn, an toàn hơn và tiết kiệm thời gian, chi phí.
TS Trung cho biết thêm: “Với các trường hợp cây trồng chỉnh sửa gen không chứa DNA ngoại lai, quy trình khảo nghiệm nên được áp dụng như với cây trồng đột biến thông thường, đồng thời chứng minh không còn cấu trúc chuyển gen tồn tại. Với công nghệ hiện nay, việc xác định điều này hoàn toàn khả thi và chi phí thấp”.
Ngoài yếu tố kỹ thuật, chính sách và quản lý là vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Theo ông Trung, Việt Nam cần sớm xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng cho công nghệ chỉnh sửa gen nhằm định hướng mục tiêu nghiên cứu, xác định các cây trồng ưu tiên, tạo động lực cho các nhà khoa học, rút ngắn thời gian thương mại hóa giống mới, tăng sức cạnh tranh.
Một nội dung khác được PGS.TS Khuất Hữu Trung lưu ý là vấn đề bản quyền gen và phương pháp chỉnh sửa. Hiện Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về sở hữu trí tuệ đối với gen mục tiêu và kỹ thuật chỉnh sửa gen. “Đây là nội dung quan trọng cần sớm được đưa vào khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của nhà khoa học và tổ chức nghiên cứu trong nước”, ông nhấn mạnh.
Ông Trung kỳ vọng khi hành lang pháp lý được hoàn thiện, các nhà khoa học sẽ có định hướng rõ ràng, tập trung nguồn lực để tạo ra những giống cây trồng năng suất cao, chất lượng tốt, góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập sâu rộng.
Khai thông điểm nghẽn
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, công nghệ chỉnh sửa gen là một thành tựu mang tính cách mạng của khoa học nông nghiệp hiện nay. “Chúng ta cần nhìn nhận đúng vai trò của công nghệ này để nắm bắt thời cơ phát triển”, Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh.
Thực tế, chỉnh sửa gen không còn là lĩnh vực mới mà đã được triển khai nghiên cứu, ứng dụng thực tế tại nhiều viện và trung tâm trong nước. Chỉnh sửa gen chính là bước tiến tiếp theo của biến đổi gen, giúp tạo ra giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng vượt trội mà không cần đưa DNA ngoại lai vào cơ thể sinh vật.
Vì vậy, Việt Nam phải biết chớp lấy thời cơ này để khẳng định vai trò của khoa học công nghệ, đồng thời phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng cho rằng, khi hành lang pháp lý được hoàn thiện, Việt Nam hoàn toàn có thể huy động sức mạnh của hệ thống khoa học, công nghệ, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của toàn ngành nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và thú y.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến. Ảnh: Hùng Khang.
“Công nghệ chỉnh sửa gen không chỉ là câu chuyện của nghiên cứu mà còn là cơ hội để nông nghiệp Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới - chủ động, hiện đại và hội nhập sâu với thế giới”, Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh.
Về du nhập cái mới và biết nắm bắt cơ hội, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến lấy ví dụ con tôm thẻ chân trắng từng là vấn đề từng gây tranh luận giữa Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Tài nguyên Môi trường, song thực tế đã chứng minh tôm thẻ chân trắng mang lại giá trị kinh tế rất lớn. Hiện cả nước có khoảng 740.000 ao nuôi, sản lượng đạt 1,3 triệu tấn/năm, trong đó tôm thẻ chiếm tỷ lệ chủ đạo.
Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh, cần rà soát, đánh giá cơ sở khoa học và thực tiễn, đồng thời vận dụng linh hoạt pháp luật để phát huy giá trị đa dạng sinh học của Việt Nam, đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, qua đó khai thông điểm nghẽn và mở đường cho ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp.
Còn theo TS Nguyễn Thị Thanh Thủy, nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường – Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam nên xem xét áp dụng cách tiếp cận đánh giá cây trồng chỉnh sửa gen dựa trên sản phẩm cuối cùng tương tự như nhiều quốc gia phát triển nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và rút ngắn thời gian thương mại hóa sản phẩm.
Cụ thể, nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Nhật Bản hay một số nước ở châu Mỹ Latinh như Argentina và Brazil đã chuyển trọng tâm quản lý cây trồng chỉnh sửa gen sang đánh giá sản phẩm cuối cùng thay vì cách thức tạo ra chúng.
Cách tiếp cận này giúp giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian quy định nhưng vẫn đảm bảo an toàn sinh học. “Nếu Việt Nam áp dụng cách thức này, chúng ta có thể thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ sinh học tiên tiến, đặc biệt là công nghệ chỉnh sửa gen vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp”, bà Thủy nhấn mạnh.
Tuy vậy, bà Thủy cũng cho rằng, đánh giá cây trồng chỉnh sửa gen dựa trên sản phẩm cuối cùng phải đi kèm với cơ chế quản lý và giám sát chặt chẽ. Do đó rất cần những quy định về an toàn sinh học, giám sát rủi ro, truyền thông khoa học và minh bạch để người dân cũng như thị trường hiểu rõ và đón nhận sản phẩm. Để thực hiện được điều này, nước ta nên kết hợp đánh giá theo sản phẩm cuối cùng với xem xét từng trường hợp cụ thể, đồng thời áp dụng truy xuất nguồn gốc nhằm bảo vệ đa dạng sinh học, đảm bảo an toàn sinh học và tăng tính minh bạch.