TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên: Hành trình khoa học không cho phép bản thân tự mãn

Kim Anh - Văn Vũ - Thứ Năm, 02/10/2025 , 09:54 (GMT+7)

CẦN THƠ TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên cùng các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL dày công nghiên cứu, chọn tạo nhiều giống lúa chất lượng cao, được nông dân tin tưởng sử dụng rộng rãi.

Đến với Viện Lúa ĐBSCL là một cơ duyên

Tháng 4/2001, sau khi tốt nghiệp ngành Nông học (Trường Đại học Cần Thơ), TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên mang theo nhiệt huyết của tuổi trẻ, sự định hướng từ thầy cô và mong muốn được dấn thân sâu hơn vào nghiên cứu khoa học, chị quyết định nộp hồ sơ xin vào làm việc tại Viện Lúa ĐBSCL.

Chỉ một tuần sau đó, chị được PGS.TS Bùi Bá Bổng – Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL lúc bấy giờ mời lên phỏng vấn trực tiếp và chính thức trở thành cán bộ mới của Viện.

TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên trả lời phỏng vấn về công tác nghiên cứu, chọn tạo giống lúa. Ảnh: Kim Anh.

“Ngày đó tôi mừng lắm. Viện có nhiều cán bộ là 'đàn anh, đàn chị' từ nhiều vùng miền trên cả nước quy tụ, dù điều kiện đi lại và sinh hoạt còn khó khăn nhưng không khí làm việc rất gắn bó, ai cũng nhiệt tình hướng dẫn, chia sẻ”, TS Tiên kể lại.

Những ngày đầu, TS Tiên công tác tại Bộ môn Công nghệ sinh học với vai trò là trợ lý nghiên cứu, sau đó tham gia vào bộ phận cây trồng cạn, phụ trách mảng nuôi cấy mô.

Với sự hướng dẫn tận tâm về chuyên môn của các “tiền bối”, chị có cơ hội trải nghiệm thực tế đồng ruộng, tiếp xúc nhiều hơn với bà con nông dân. Bởi chỉ có nông dân mới là thước đo thành công của nghiên cứu. Về sau, chị được lãnh đạo Bộ môn giao nhiệm vụ nhiều hơn từ những việc nhỏ dần đến việc lớn. Qua đó, bản thân chị được thử sức với công tác nghiên cứu và tiếp xúc với các đề tài, dự án và các chuyên gia nước ngoài.

Năm 2005 là thời điểm đặt dấu mốc trong chặng đường tham gia công tác chọn tạo giống lúa của TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên. Đến năm 2011, chị chính thức đứng tên chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ với đề tài “Chọn tạo giống lúa nếp cho vùng ĐBSCL”. Đây là dấu mốc quan trọng khẳng định năng lực và sự trưởng thành của chị.

Nhiều giống lúa do các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL nghiên cứu, chọn tạo được nông dân đánh giá cao. Ảnh: Kim Anh.

Năm 2013, khi ngoài 35 tuổi, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên được bổ nhiệm giữ chức Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, trở thành nữ lãnh đạo trẻ nhất từ trước đến nay của Viện. Đây vừa là niềm vinh dự, vừa là trọng trách buộc chị phải dung hòa giữa vai trò quản lý và công tác nghiên cứu khoa học.

Chị bộc bạch: “Không có gì là dễ dàng trong công tác nghiên cứu. Mỗi đề tài, mỗi giống lúa là một hành trình đầy thử thách, nhưng chính áp lực đó giúp tôi rèn luyện và phát triển hơn”.

Hơn 20 năm gắn bó với công tác nghiên cứu khoa học, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên đã chứng kiến và trải qua nhiều giai đoạn chuyển mình của ngành lúa gạo, từ việc chỉ cần năng suất cao đến chống chịu sâu bệnh, rồi yêu cầu về chất lượng gạo, hàm lượng dinh dưỡng và hiện nay là hướng tới nông nghiệp bền vững, giảm phát thải khí nhà kính.

Mỗi chặng đường nghiên cứu đều buộc chị và đội ngũ các nhà khoa học của Viện Lúa ĐBSCL phải không ngừng đổi mới tư duy để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.

Hơn 60% cán bộ tại Viện Lúa ĐBSCL là nữ, từ đó chị hiểu rõ những vất vả mà đồng nghiệp nữ phải trải qua khi công tác nghiên cứu luôn gắn liền với đồng ruộng. Nhưng sự ổn định, đam mê và tình yêu khoa học đã giữ chân họ, giúp Viện có lực lượng nghiên cứu bền bỉ, tận tâm. Với TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên, đây còn là trách nhiệm truyền lửa cho thế hệ trẻ, để các cán bộ nữ tự tin gắn bó lâu dài với sự nghiệp chọn tạo giống lúa.

TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên (đứng giữa) trong dịp ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng giống lúa thuần OM34 cho doanh nghiệp bằng hình thức đấu giá. Ảnh: Kim Anh.

Không cho phép nhà khoa học tự mãn

Hai thập kỷ qua, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên cùng tập thể các nhà khoa học ở Viện Lúa ĐBSCL đã tạo dấu ấn đậm nét với hàng loạt giống lúa chất lượng cao, chống chịu điều kiện bất lợi, được chuyển giao rộng rãi vào sản xuất.

Có thể kể đến giống lúa OM429 mang gen chống chịu mặn đã được chuyển giao cho Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời khai thác và phát triển; giống OM8 từng đoạt giải ba Hội thi Gạo ngon Việt Nam năm 2020; giống OM468 hợp tác cùng Công ty cổ phần Tập đoàn ThaibinhSeed cho năng suất cao, chất lượng gạo tốt, hàm lượng GI thấp, tiềm năng phục vụ người bệnh tiểu đường hay giống OM46 được công nhận lưu hành năm 2024...

Những giống lúa này không chỉ mang dấu ấn trong nghiên cứu khoa học mà còn là thành quả của tinh thần lao động tập thể. Bởi theo TS Kiều Tiên, mỗi giống lúa là kết tinh của cả tập thể âm thầm ngày đêm trên đồng ruộng, là sự cống hiến, đóng góp của hàng chục bàn tay nhà khoa học cùng chung sức để mang lại giá trị thực tiễn cho nông dân.

TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên là đồng tác giả giống lúa OM429 được công nhận lưu hành năm 2020 và được chuyển giao quyền sử dụng và khai thác cho doanh nghiệp. Ảnh: Kim Anh.

Tính đến nay, nhiều giống lúa do TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên tham gia nghiên cứu đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ) công nhận, chuyển giao cho các doanh nghiệp giống lớn. Quy mô sản xuất những giống này ước đạt trên 10.000 ha.

Đặc biệt, tiến bộ kỹ thuật “Quy trình cơ giới hóa sạ hàng kết hợp vùi phân bón” đã nhanh chóng được nông dân ĐBSCL ứng dụng, giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất, giảm phát thải và tăng lợi nhuận.

Không chỉ tập trung nghiên cứu trong nước, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên còn tham gia nhiều đề tài hợp tác quốc tế với Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và Sáng kiến hợp tác nông nghiệp và lương thực Châu Á (AFACI), góp phần quảng bá hình ảnh và năng lực khoa học của Việt Nam ra khu vực.

Các công trình nghiên cứu của chị liên tục được đánh giá cao, nhiều lần đạt giải thưởng quốc tế, trong đó nổi bật là giải “Chủ nhiệm đề tài xuất sắc” năm 2021 và 2023 do AFACI trao tặng.

Danh hiệu "Nhà khoa học của nhà nông năm 2025" là minh chứng cho tâm huyết của tập thể các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Ở góc độ quản lý, với vai trò Phó Viện trưởng phụ trách khoa học và hợp tác quốc tế, chị cùng cộng sự đang nỗ lực đưa Viện Lúa ĐBSCL bắt kịp xu thế mới của ngành lúa gạo toàn cầu. Đó là xu hướng giảm phát thải, sản xuất lúa chất lượng cao, bền vững và thân thiện với môi trường, đồng thời đáp ứng các phân khúc thị trường ngày càng đa dạng.

“Thành quả hôm nay so với thế hệ đi trước vẫn chưa thể theo kịp, chúng tôi không cho phép mình tự mãn. Mỗi giống lúa ra đời chỉ có thể tồn tại một thời gian nhất định. Khi chu kỳ ấy khép lại, phải có giống mới tốt hơn thay thế, bắt kịp nhu cầu sản xuất và thị trường”, TS Tiên chia sẻ.

Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã ghi nhận, vinh danh TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên là “Nhà khoa học của nhà nông năm 2025”. Danh hiệu này không chỉ là sự công nhận cho cá nhân chị mà còn là niềm tự hào, minh chứng cho tâm huyết của tập thể các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL.

Kim Anh - Văn Vũ
Tin khác
Công cụ số đầu tiên chấm điểm mức tuân thủ sản xuất lúa phát thải thấp
Công cụ số đầu tiên chấm điểm mức tuân thủ sản xuất lúa phát thải thấp

CẦN THƠ VIETRISA và IRRI đã giới thiệu công cụ ViRiCert - giải pháp số hóa quy trình đánh giá việc thực hiện sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL.

Nguyễn Lân Hùng: Lại bàn chuyện rùa Hồ Gươm
Nguyễn Lân Hùng: Lại bàn chuyện rùa Hồ Gươm

Gần đây, trên một số tờ báo và mạng xã hội lại xôn xao rùa nổi ở Hồ Gươm. Có người còn đưa cảnh rùa Hồ Gươm nổi lên, dân chúng hò reo chào đón…

Khát vọng... Lai Châu
Khát vọng... Lai Châu

Sau Đại hội, Lai Châu bừng lên khát vọng đổi mới, niềm tin vào chặng đường phát triển xanh hơn, nhanh hơn, bền vững hơn; nơi ý Đảng hòa cùng với lòng dân.

Hoàn thiện khung pháp lý trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam
Hoàn thiện khung pháp lý trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam

Đại biểu Quốc hội, quản lý chuyên ngành, các nhà khoa học góp ý hoàn thiện khung pháp lý trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam.

Các nhà khoa học, doanh nghiệp chia sẻ công nghệ nhân giống và năng lực cạnh tranh cho cây dừa Việt Nam
Các nhà khoa học, doanh nghiệp chia sẻ công nghệ nhân giống và năng lực cạnh tranh cho cây dừa Việt Nam

Ngành dừa đang cần chương trình hành động với các chính sách cụ thể trong chọn tạo giống, công nghệ chế biến, nâng cao giá trị, tăng sức cạnh tranh toàn ngành.

Lựa chọn công nghệ chế biến dừa
Lựa chọn công nghệ chế biến dừa

ĐBSCL Công nghệ chế biến dừa hiện đại, nâng chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Trình bày: PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch.

5 nhóm giải pháp nâng cao năng suất cây dừa
5 nhóm giải pháp nâng cao năng suất cây dừa

ĐBSCL Giải pháp quản lý sức khỏe tổng hợp cho cây dừa. Trình bày: ThS Huỳnh Thị Ngọc Diễm, Phó Giám đốc Trung tâm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phía Nam.

Ứng dụng công nghệ sinh học tạo giống dừa ưu điểm vượt trội
Ứng dụng công nghệ sinh học tạo giống dừa ưu điểm vượt trội

ĐBSCL Công nghệ sinh học tạo giống dừa ưu điểm vượt trội. Bài trình bày của PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP.HCM.

Đưa Việt Nam trở thành trung tâm tri thức về nông nghiệp sinh thái
Đưa Việt Nam trở thành trung tâm tri thức về nông nghiệp sinh thái

ALiSEA Việt Nam có mạng lưới thành viên đa dạng, giàu kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp sinh thái với 69 tổ chức nghiên cứu, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp tư nhân.

Tập huấn sử dụng thuốc BVTV an toàn cho 1.200 đại lý và 4.100 nông dân Đồng Tháp
Tập huấn sử dụng thuốc BVTV an toàn cho 1.200 đại lý và 4.100 nông dân Đồng Tháp

CropLife Việt Nam đã giúp nâng cao kiến thức cho hơn 4.100 nông dân và 1.200 đại lý, cơ sở buôn bán tại Đồng Tháp sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và có trách nhiệm.

C.P. Việt Nam chung tay phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững
C.P. Việt Nam chung tay phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững

Năm 2025 đánh dấu 80 năm xây dựng và phát triển của ngành NN-MT, một chặng đường đầy tự hào với những bước tiến trong sản xuất, hội nhập, phát triển bền vững.

Dabaco mở rộng mô hình 3F+, hướng tới tương lai xanh
Dabaco mở rộng mô hình 3F+, hướng tới tương lai xanh

Mô hình 3F+ hướng tới khai thác tài nguyên chọn lọc, bảo vệ tái tạo, thúc đẩy giáo dục và tiêu dùng xanh, gắn liền với chiến lược phát triển bền vững của Dabaco.