| Hotline: 0983.970.780

Khai thác 'mỏ vàng' rong biển: [Bài cuối] Tiềm năng ngoại tệ khổng lồ

Thứ Năm 16/10/2025 , 06:17 (GMT+7)

Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam chia sẻ góc nhìn chuyên sâu về hành trình khẳng định chất lượng quốc tế và tiềm năng kinh tế vượt trội của ngành rong biển.

Rong biển nói chung, rong nho nói riêng không chỉ là một thực phẩm dinh dưỡng mà còn là một giải pháp toàn diện về kinh tế, môi trường và xã hội cho Việt Nam. Đó là lời khẳng định của ông Lê Bền, Phó Giám đốc Công ty TNHH Trí Tín, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam.

Là người tiên phong đưa rong nho vào Việt Nam, ông đã chia sẻ những góc nhìn chuyên sâu về hành trình khẳng định chất lượng và tiềm năng khổng lồ của rong biển được thế giới cho rằng đây là "nguồn nguyên liệu của thế hệ thứ ba".

Ông Lê Bền, Phó Giám đốc Công ty TNHH Trí Tín, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam. Ảnh: Kim Sơ.

Ông Lê Bền, Phó Giám đốc Công ty TNHH Trí Tín, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam. Ảnh: Kim Sơ.

Khẳng định chất lượng bằng chuẩn mực quốc tế

Cách đây hơn 20 năm, một đối tác Nhật Bản đã chia sẻ với ông về món rong nho bổ dưỡng tại Nhật. Loài rong này xuất xứ từ Philippines, khá đắt đỏ do chỉ trồng được ở vùng Okinawa (cực nam Nhật Bản), nơi có nhiệt độ tương đối ấm áp, nhưng điều kiện khí hậu không thuận lợi khiến năng suất và chất lượng chưa cao. Từ đó, ông Lê Bền nảy ra ý nghĩ đưa rong nho về vùng biển quê nhà ở phường Đông Ninh Hòa.

Năm 2004, từ 200gr rong nho giống từ Nhật Bản đã bén rễ và phát triển tốt ở vùng đìa nuôi tôm, ốc hương thua lỗ. Sau hai năm nỗ lực nghiên cứu và nhân giống, lô rong nho đầu tiên do ông nuôi trồng đã được xuất khẩu và khẳng định chất lượng tại thị trường Nhật Bản vào năm 2006. Khách hàng Nhật Bản sau đó đã cử chuyên gia sang tận đìa rong ở Ninh Hải để kiểm chứng và ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với Công ty TNHH Trí Tín, mở ra cơ hội lớn cho rong nho Khánh Hòa.

Năm 2007, phương pháp trồng rong nho kê sàn có lưới che do ông nghiên cứu đã đạt Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam (VIFOTEC). Hiện nay, ông còn nghiên cứu phương pháp trồng rong nho trong vỉ hình vuông, đặt cách đáy đìa khoảng 30 cm, cho năng suất đạt 50-60 tấn/ha, cao gấp đôi so với phương pháp trồng truyền thống trong đáy ao.

Ông cho biết sẽ tiếp tục nâng năng suất lên 100 tấn/ha. “Phương pháp này giúp năng suất và chất lượng rong nho luôn ở mức cao nhất, đồng thời giảm nhân công thu hoạch rất nhiều”, ông nói.

Ông Lê Bền giới thiệu mô hình nuôi rong nho trong vỉ. Ảnh: Kim Sơ.

Ông Lê Bền giới thiệu mô hình nuôi rong nho trong vỉ. Ảnh: Kim Sơ.

Ngoài phương pháp trồng, Công ty TNHH Trí Tín còn áp dụng quy trình chế biến sâu và quản lý chất lượng nghiêm ngặt, đạt các chứng nhận quốc tế như HACCP, HALAL và Code TS 611. Điều này cho phép rong nho Trí Tín xuất khẩu trực tiếp sang nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Trung Quốc.

Đặc biệt, sản phẩm rong nho tách nước Trí Tín là sản phẩm OCOP 5 sao đầu tiên của tỉnh Khánh Hòa năm 2023. Bộ sản phẩm rong biển của Công ty cũng đạt sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp quốc gia năm 2025. Những thành tựu này là minh chứng rõ nhất cho chất lượng và năng lực đổi mới của rong nho Việt Nam.

Tạo ra nguồn ngoại tệ bền vững

Sau nhiều năm nghiên cứu, ông nhận thấy, thế giới hiện nay xem rong biển là nguồn nguyên liệu thế hệ thứ ba vì khả năng giải quyết vấn đề an ninh lương thực và ứng phó biến đổi khí hậu.

Về mặt kinh tế, ông Bền khẳng định, rong biển nói chung, rong nho nói riêng mang lại hiệu quả kinh tế vượt trộ so với cây trồng trên cạn, với thu nhập có thể đạt từ 350-700 triệu đồng/ha/năm. Các mô hình thâm canh đã đạt năng suất từ 50-70 tấn/ha/năm và đang hướng tới mục tiêu trên 100 tấn/ha trong tương lai gần.

Khi đó sẽ tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn và bền vững. Đối với Công ty TNHH Trí Tín doanh thu đã đạt khoảng 12 tỷ đồng/năm, trong đó 80% là từ hoạt động xuất khẩu.

Rong nho được chế biến tách nước của Công ty TNHH Trí Tín. Ảnh: Kim Sơ.

Rong nho được chế biến tách nước của Công ty TNHH Trí Tín. Ảnh: Kim Sơ.

Mặc dù giá rong thô trong nước chỉ dao động 28.000-30.000 đồng/kg, nhưng sản phẩm chế biến sâu có giá trị vượt trội. Ông Bền tiết lộ, 1 kg rong nho tách nước đang được bán vào thị trường quốc tế với mức giá khoảng 17 USD. Sự chênh lệch này cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư vào công nghệ chế biến sâu, biến rong nho tươi thành rong nho tách nước, snack rong biển hay các sản phẩm mỹ phẩm như serum và sữa dưỡng rong nho.

Bên cạnh đó, rong nho còn có lợi ích vượt trội về môi trường. Nó không tranh chấp đất nông nghiệp, không tiêu tốn nguồn nước ngọt và đặc biệt giúp thải khí oxy tốt, bảo tồn đa dạng sinh vật biển và hình thành những thảm cỏ biển hỗ trợ hệ sinh thái, hoàn toàn không gây ô nhiễm môi trường biển.

Để khai thác "mỏ vàng" rong biển

Tuy nhiên Phó Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam thẳng thắn chỉ ra rằng ngành rong biển Việt Nam, rong nho nói riêng vẫn chưa phát triển tương xứng tiềm năng do phương thức làm ăn manh mún, thiếu liên kết và chưa có sự ổn định về vùng nuôi trồng.

Ông Bền cho rằng, rong biển nói chung, rong nho nói riêng chưa được khai thác hết tiềm năng. Ảnh: Kim Sơ.

Ông Bền cho rằng, rong biển nói chung, rong nho nói riêng chưa được khai thác hết tiềm năng. Ảnh: Kim Sơ.

Để ngành phát triển mạnh mẽ và bền vững, ông cho rằng, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Quan trọng nhất, người nông dân cần thay đổi tư duy, vượt qua thói quen cá thể để liên kết thành tổ hợp tác xã hay chuỗi liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Việc này tạo ra sức mạnh về vốn, đầu tư công nghệ và kiểm soát chất lượng.

Bên cạnh đó, cần tập trung mạnh vào khoa học công nghệ và chế biến sâu để sản phẩm đưa ra nước ngoài phải là sản phẩm có giá trị cao nhất.

Cuối cùng, ông kiến nghị chính quyền cần có vai trò định hướng bằng cách bảo đảm ổn định vùng nuôi trồng, cấp quyền sử dụng rõ ràng và có các biện pháp chế tài để kiểm soát chất lượng, tránh tình trạng sản phẩm kém chất lượng làm mất uy tín thị trường quốc tế.

Ngoài ra, việc ưu tiên phát triển rong biển tại các khu vực ven biển không thể sử dụng cho ngành nghề khác sẽ là một hướng đi chiến lược, mang lại lợi ích kép về kinh tế và môi trường.

Xem thêm
Nuôi trâu, bò vỗ béo, sinh kế bền vững cho đồng bào vùng cao

Mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo đang trở thành hướng đi hiệu quả giúp đồng bào vùng cao Tuyên Quang ổn định sinh kế, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Âu Lâu bớt âu lo nhờ chủ động phòng dịch đàn gia súc

Lào Cai Không còn thấp thỏm mỗi khi nghe tin dịch lở mồm long móng xuất hiện ở đâu đó, người dân nay đã yên tâm phần nào khi chủ động phòng dịch, tiêm phòng đều.

Tri thức nảy mầm trong gian khó, khơi nguồn cho 'cách mạng xanh'

Từ chiến hào đến đồng ruộng, tri thức của người Việt đã nảy mầm giữa bom đạn, tạo nên tiền đề cho nền nông nghiệp tự cường hôm nay.

Nông nghiệp và môi trường vùng ĐBSCL: 80 năm thích nghi, chuyển mình

80 năm ngành nông nghiệp và môi trường vùng ĐBSCL là câu chuyện của sự thích nghi và chuyển mình không ngừng, chung mục tiêu phát triển hài hòa sản xuất, bảo vệ môi trường.

Khoa học công nghệ 'đổi phận' tỏi Lý Sơn

QUẢNG NGÃI Nhờ ứng dụng khoa học công nghệ chế biến sâu, tỏi Lý Sơn đang dần thoát khỏi cảnh bán thô, mở ra hướng đi bền vững.

Việt Nam tăng tốc hoàn thiện hệ thống mã số rừng trồng

Các chuyên gia nhận định, việc xây dựng và vận hành hệ thống này giúp kiểm soát nguồn gốc gỗ, nâng cao chất lượng và đáp ứng các quy định từ thị trường quốc tế.