Trồng rong, câu cá, 'hái tiền' du lịch

Việc kết hợp rong biển với dịch vụ trải nghiệm câu dìa đang mở ra hướng đi mới, vừa tạo sinh kế bền vững cho người dân, vừa góp phần bảo tồn hệ sinh thái và thu hút khách du lịch. Một nhánh rong giữa biển hôm nay không chỉ là sinh kế, mà còn là bước khởi đầu cho một tương lai biển xanh và thịnh vượng.

 

Nhờ sở hữu bờ biển dài, nhiều đảo lớn, nhỏ trải dài trên nhiều vĩ độ, sự đa dạng về khí hậu, dòng chảy bề mặt, nhiệt độ, lượng mưa và độ mặn của các vùng ven biển, Việt Nam có hệ sinh thái rong biển phong phú với thành phần loài đa dạng.

Theo thống kê, ở Việt Nam đã ghi nhận được 827 loài, thuộc 4 ngành là rong Lam (Cyanophyta) 88 loài, rong Đỏ (Rhodophyta) 412 loài, rong Nâu (Ochrophyta) 147 loài và rong Lục (Chlorophyta) 180 loài.

Các nhóm/loài rong đang được nuôi trồng phổ biến ở Việt Nam và có giá trị kinh tế cao là: Rong sụn (rong sụn - Kappaphycus alvarezii, rong sụn gai - Eucheuma denticulatum, rong bắp sú - Kappaphycus striatus); rong câu (rong câu chỉ vàng - Gracilaria tenuistipitata, rong câu cước - Gracilariopsis bailinea, rong câu thắt - Gracilaria firma); và rong nho - Caulerpa lentillifera.

 

 

 

 

Nhiều địa phương đã xây dựng thành công mô hình nuôi các đối tượng thủy sản kết hợp như: Nuôi ốc hương kết hợp hải sâm, vẹm xanh và rong sụn tại vùng biển Khánh Hòa; nuôi ốc hương, tu hài kết hợp rong câu ở vùng biển Phú Yên (nay là Đắk Lắk); tận dụng nguồn rong câu tự nhiên sẵn có tại các ao đầm nuôi quảng canh cải tiến ở khu vực nước lợ (nuôi xen ghép với tôm sú, cua, cá) với diện tích khoảng trên 500 ha, sản lượng đạt 80 - 100 tấn/năm tại Hải Phòng…

Những mô hình này đã tạo ra nhiều loại sản phẩm, nguồn cung cấp đa dạng và đáp ứng nhu cầu của nhiều thị trường khác nhau, giảm rủi ro trong sản xuất và phân phối, sử dụng hiệu quả mặt nước.

Chia sẻ tại Tuần lễ kiến thức về rong biển Hàn Quốc do Ngân hàng Thế giới - AqualInvest tổ chức vừa diễn ra tại Hàn Quốc cuối tháng 5/2025, ông Nguyễn Văn Hữu, Quyền trưởng Phòng quản lý bệnh thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và môi trường) cho biết, ngành nuôi trồng rong biển của Việt Nam đang phát triển với diện tích khoảng 16.500 ha, sản lượng 155.000 tấn rong khô năm 2024, tạo sinh kế cho khoảng 10.000 hộ dân ven biển. Các loài nuôi chính gồm rong sụn - Kappaphycus, rong câu - Gracilaria, rong mơ - Sargassum và rong nho - Caulerpa.

Rong biển được ưu tiên phát triển thành ngành kinh tế xanh, được lồng ghép vào “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Các viện nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp đang tiến hành chọn tạo giống và phát triển mô hình; triển khai các vùng nuôi thí điểm công nghệ cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp mới nổi trong lĩnh vực thực phẩm từ rong biển như: Rong nho tươi, snack rong biển, thực phẩm lên men đang hướng đến chế biến sâu và xây dựng thương hiệu quốc gia.

 

 

Tuy nhiên, ngành còn đối mặt nhiều thách thức như: Thiếu giống rong biển chất lượng; liên kết chuỗi giá trị yếu; chế biến vẫn còn thủ công, sản phẩm giá trị gia tăng thấp; giá cả bấp bênh, biến động thất thường; nghiên cứu và phát triển, đổi mới còn manh mún, ứng dụng vào thực tế chưa cao…

Để khắc phục các khó khăn này, ông Hữu cho rằng, cần thực hiện các giải pháp như: Thành lập Trung tâm Quốc gia giống rong biển; thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP), phát triển chuỗi giá trị nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp; đầu tư vào chế biến sâu để nâng cao giá trị sản phẩm; tăng cường giám sát môi trường và khả năng chống chịu khí hậu; mở rộng nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ phù hợp từng vùng sinh thái.

Ông Hữu cho hay, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển rong biển thành ngành kinh tế biển chủ lực tại các tỉnh ven biển. Tăng tỷ trọng xuất khẩu rong biển chế biến sâu, giá trị cao. Thúc đẩy sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập cộng đồng ven biển. Góp phần trung hòa carbon và phục hồi hệ sinh thái biển.

Theo đó, Việt Nam mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ các đối tác quốc tế về chuyển giao công nghệ trong nuôi trồng, chế biến và chọn tạo giống chất lượng. Hỗ trợ kỹ thuật xây dựng chuỗi giá trị bền vững, thu hút đầu tư. Tài chính xanh và đầu tư cho các startup trong lĩnh vực rong biển. Kết nối thị trường và xây dựng thương hiệu rong biển Việt Nam. Hợp tác đào tạo, nghiên cứu ứng dụng và chuyển đổi số.

Cuối năm 2024, với sự ủng hộ của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác Thủy sản bền vững (ICAFIS), Hội Thủy sản Việt Nam phối hợp cùng Công ty TNHH Japi Foods - doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và chế biến sâu các sản phẩm từ rong biển và thủy hải sản, đã triển khai Chương trình “Blue Ocean - Blue Foods”.

Ông Đinh Xuân Lập, Phó Giám đốc ICAFIS cho biết, mục tiêu của chương trình hướng tới xây dựng bể chứa carbon ngành thủy sản và thúc đẩy chuỗi kinh tế tuần hoàn có trách nhiệm cùng doanh nghiệp.

“Rong biển là đối tượng được chọn để phát triển trong chương trình, bởi nó có thể lưu trữ 1.500 tấn khí nhà kính trên mỗi km2, tốc độ phát triển của rong biển cao gấp 30 - 60 lần so với các loài thực vật trên đất liền. Rong biển có khả năng hấp thụ carbon gấp 2 - 4 lần, thậm chí tới 20 lần so với cùng một diện tích cây rừng trên đất liền”, ông Lập nói thêm.

Nhãn hàng JapiFoods cam kết đóng góp 10% doanh thu cho chương trình để hỗ trợ giống miễn phí cho người dân và thực hiện các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức. Bên cạnh đó, JapiFoods cam kết bao tiêu sản phẩm đầu ra cho bà con. Mục tiêu hướng tới là phát triển vùng trồng rong biển với diện tích ít nhất 1.000 ha và ít nhất 100.000 người hưởng lợi trong 3 năm đầu tiên của chương trình (đóng góp tương đương với 1.500 triệu tấn khí nhà kính được lưu trữ).

Từ đó đến nay, chương trình đã tặng rong giống cho bà con nuôi trồng thủy sản ở Cát Bà (Hải Phòng), Cà Mau với niềm tin rằng: “Một nhánh rong nhỏ giữa biển hôm nay không chỉ là sinh kế, mà còn là bước khởi đầu cho những vùng biển mạnh mẽ hơn trước biến đổi khí hậu”.

trong-rong-cau-ca-hai-tien-du-lich-132257_298

Đánh giá về chương trình này, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân cho hay: “Trong nỗ lực đa dạng hóa đối tượng nuôi theo hướng tích hợp đa giá trị, chúng tôi mong muốn giúp người nuôi có thể khai thác nhiều loại sản phẩm khác nhau trên cùng một diện tích, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng”.

Theo ông Luân, việc đưa rong biển vào nuôi kết hợp với các đối tượng thủy sản khác không chỉ góp phần nâng cao thu nhập, đa dạng sản phẩm cho người dân mà còn mang ý nghĩa đặc biệt trong việc xanh hóa hệ sinh thái các khu bảo tồn thiện nhiên, trở thành điểm nhấn về môi trường, sinh thái và đa dạng sinh học, góp phần thu hút du khách du lịch, tạo sinh kế bền vững cho bà con.

Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân nhấn mạnh: Nguồn lợi thủy sản biển đang ngày càng suy giảm. Ngành thủy sản đang hướng đến mục tiêu giảm khai thác, tăng nuôi trồng. Việc trồng rong kết hợp nuôi một số loài nhuyễn thể, nuôi cá vừa giúp đa dạng hóa sản phẩm, vừa góp phần bảo vệ môi trường.

“Đối với những vùng trồng rong, chúng tôi mong muốn sau này sẽ kết hợp với dịch vụ câu cá dìa phục vụ khách du lịch. Mô hình này không chỉ tạo sinh kế bền vững cho người dân mà còn mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế xanh gắn với bảo tồn và du lịch”, ông Luân nhấn mạnh.

“Báo cáo 2023 về Thị trường mới nổi và xu hướng phát triển của rong biển toàn cầu” nhấn mạnh, một trong những lý do chính khiến rong biển ngày càng được quan tâm là vì cả hoạt động nuôi trồng và chế biến đều có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội, đặc biệt cho các cộng đồng ven biển - nơi các nghề truyền thống như đánh bắt đang suy giảm.

Về môi trường, nuôi trồng rong biển có thể hấp thụ carbon, cải thiện chất lượng nước nhờ hấp thụ dư thừa các chất dinh dưỡng như nitơ, tạo môi trường sống cho nhiều loài sinh vật có ích, giúp ngăn xói mòn bờ biển và cung cấp hàng loạt dịch vụ hệ sinh thái khác.

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển rong biển với 3.200 km đường bờ biển, 112 cửa sông, 660.000 ha bãi triều và vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km². Bên cạnh đó, hệ thống eo vịnh, đầm phá phong phú cùng nền đáy đa dạng và điều kiện môi trường đặc trưng của vùng nhiệt đới như nhiệt độ, độ mặn... rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loài rong biển.

Xu hướng tiêu dùng hiện đại ngày càng ưu tiên thực phẩm lành mạnh, giàu dinh dưỡng và an toàn cho sức khỏe. Đặc biệt, sự phổ biến của chế độ ăn thực vật và việc lựa chọn “thực phẩm toàn phần” - tức các sản phẩm giàu giá trị dinh dưỡng, không chứa hóa chất hay thành phần nhân tạo, đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy ngành rong biển phát triển mạnh mẽ.

Nghề trồng rong biển đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng từ các quốc gia có thu nhập cao như một giải pháp dựa vào thiên nhiên để phát triển kinh tế, đóng góp to lớn vào các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs), SDG 14 (sinh vật thủy sinh), SDG13 (hành động khí hậu), SDG6 (tăng trưởng kinh tế và việc làm), SDG5 (bình đẳng giới) và Thập kỷ khoa học đại dương vì phát triển bền vững của Liên hợp quốc (2021 - 2030).

Người dân đã có kinh nghiệm thực tiễn, trong khi kỹ thuật trồng rong biển tương đối đơn giản, chi phí đầu tư thấp, dễ tiếp cận và phù hợp với nhiều đối tượng nuôi trồng.

Việc trồng rong biển cũng góp phần tăng số lượng tín chỉ carbon cho Việt Nam và nhiều nước trên thế giới bởi rong biển hấp thu CO2 nhanh gấp 5 lần cây cối trên cạn, thời gian luân chuyển bể chứa cacbon của hệ sinh thái biển chỉ là 10 năm trong khi thời gian này đối với rừng trồng là 50 năm.

Tuy nhiên cũng theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, bên cạnh những thuận lợi, ngành rong biển nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức.

Việt Nam có khoảng 900.000 ha diện tích tiềm năng trồng rong, ước tính có thể đạt sản lượng 600.000 - 700.000 tấn khô mỗi năm. Tuy nhiên, diện tích canh tác thực tế vẫn còn rất khiêm tốn và nhiều năm qua chưa có bước đột phá rõ rệt.

Do ngành trồng rong biển chưa được quy hoạch, thiếu đồng bộ nên sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa xây dựng được chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Người trồng rong chủ yếu bán sản phẩm thô sơ cho thương lái và rong biển qua nhiều bên trung gian mới đến được với doanh nghiệp chế biến và người tiêu dùng. Do đó, chi phí sản phẩm bị tăng cao do chi phí trung gian.

Hiện nay đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia sản xuất và chế biến rong biển. Một số doanh nghiệp trong nước cũng đã liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài trồng và chế biến rong biển xuất khẩu đi Nhật Bản, Hàn Quốc, tuy nhiên nhìn chung công nghệ chế biến sâu rong biển chưa phát triển, chưa so sánh được với các sản phẩm chế biến sâu của Hàn Quốc, Nhật Bản.

Nguồn giống cung cấp chủ yếu được sản xuất bằng phương pháp sinh sản sinh dưỡng. Người trồng rong thường lựa chọn và lưu giữ một lượng nhất định rong khỏe mạnh, sạch bệnh và tăng trưởng nhanh làm giống cho vụ sau. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến suy giảm sức sống, năng suất và chất lượng rong thu hoạch. Theo thống kê, hiện trên cả nước chỉ có 1 cơ sở sản xuất giống rong nuôi cấy mô quy mô công nghiệp…

Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân cho biết, thời gian qua, Cục đã tích cực triển khai thử nghiệm trồng rong sụn tại nhiều vùng ở phía Bắc - nơi loài rong này không phân bố tự nhiên. Điều này để giúp người dân hiểu về ý nghĩa, vai trò của rong sụn. Giai đoạn đầu khi đưa một sản phẩm mới vào việc thay đổi tư duy, thay đổi cách làm của bà con gặp không ít những khó khăn.

Chính vì thế, việc trực tiếp trao giống rong, hướng dẫn kỹ thuật ngay từ đầu cho bà con như vừa qua tại Cát Bà của Chương trình Blue Ocean - Blue Foods có ý nghĩa rất quan trọng. Qua quá trình nuôi 2 - 3 tháng, bà con có thể thấy rõ sự thay đổi từng ngày của rong sụn, đặc biệt khi được kết hợp nuôi cùng cá và nhuyễn thể.

“Bên cạnh việc hướng dẫn kỹ thuật giúp bà con tham gia sản xuất một cách hiệu quả nhất, chúng tôi xác định, cần phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng để xây dựng một chuỗi giá trị rong biển bài bản. Chuỗi này phải được tổ chức đồng bộ từ vùng nguyên liệu, khâu thu mua, sơ chế, chế biến đến phát triển sản phẩm phù hợp với thị trường”, ông Luân nhấn mạnh.

Thị trường luôn là câu hỏi quan trọng nhất. Trong Chương trình “Blue Ocean - Blue Foods”,  Japi Foods cam kết thu mua toàn bộ sản phẩm rong sụn của bà con để chế biến phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Dẫu vậy hành trình này của doanh nghiệp cũng còn lắm chông gai.

Bà Nguyễn Thị Sâm, Giám đốc Công ty TNHH Japi Foods cho biết, JapiFoods phát triển chuỗi giá trị rong biển khép kín, từ vùng trồng rong liên kết đến công nghệ chiết xuất hiện đại tại nhà máy. Công ty không chỉ tạo ra sản phẩm đầu ra có giá trị kinh tế cao như chiết xuất collagen hay gel rong sụn, mà còn kết hợp đổi mới sáng tạo trong đóng gói, bảo quản, truyền thông.

“Mỗi sản phẩm của chúng tôi đều kể một câu chuyện về biển cả Việt Nam, góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia trên bản đồ thực phẩm xanh toàn cầu”, bà Sâm nhấn mạnh.

Chia sẻ về tiềm năng và thách thức lớn nhất đối với ngành rong biển Việt Nam hiện nay, bà Sâm cho hay, tiềm năng là nhu cầu toàn cầu đang tăng nhanh với nhóm sản phẩm thực phẩm biển xanh (blue foods), đặc biệt là rong biển - một nguồn nguyên liệu vừa giàu dinh dưỡng, vừa thân thiện môi trường.

Nhưng thách thức còn nhiều, đó là thiếu quy hoạch quốc gia về ngành rong biển, thiếu đầu tư hạ tầng sau thu hoạch và chưa có hành lang pháp lý riêng cho sản phẩm chiết xuất từ rong biển trong lĩnh vực thực phẩm chức năng.

“Làm nông nghiệp xanh là hành trình nhiều khát vọng nhưng cũng đầy thử thách. Chúng tôi phải đối mặt với chi phí đầu vào cao, quy trình sản xuất nghiêm ngặt, thị trường tiêu thụ còn hạn chế và thiếu hệ sinh thái hỗ trợ đồng bộ. Điều khó nhất không phải là trồng sạch, làm thật - mà là giữ được niềm tin và sức bền giữa một thị trường vẫn quen với sản phẩm rẻ, nhanh, dễ”, bà Sâm tâm tư.

Theo đó, để phát triển ngành rong biển Việt Nam một cách bài bản và bền vững, bà Sâm cho rằng, cần 3 trụ cột chính: Một là, nhà nước sớm ban hành quy hoạch phát triển vùng trồng rong biển theo từng tiểu vùng sinh thái.

Hai là thiết lập cơ chế tín dụng xanh ưu đãi cho doanh nghiệp chế biến sâu và liên kết vùng nguyên liệu.

Ba là, hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sau thu hoạch, đồng thời hoàn thiện khung pháp lý cho các sản phẩm có nguồn gốc từ rong biển trong ngành thực phẩm và dược liệu.

 

 

 

 

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn STP Group - doanh nghiệp đầu tiên ở phía Bắc nghiên cứu và triển khai thành công mô hình nuôi trồng rong sụn kết hợp nuôi hàu và du lịch tại Vân Đồn, Quảng Ninh cho hay: “Chúng tôi không mong được ưu ái, chỉ mong có một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch và ổn định để yên tâm đầu tư lâu dài”.

Cụ thể, doanh nghiệp kỳ vọng: Có một quy hoạch vùng nuôi biển quốc gia cập nhật, công khai, minh bạch. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính và thiết lập cơ chế một cửa liên thông cho các dự án đầu tư nuôi biển công nghệ cao. Triển khai gói tín dụng xanh, chính sách bảo hiểm rủi ro riêng cho ngành nuôi biển, tương tự như nông nghiệp công nghệ cao trên đất liền. Đẩy mạnh vai trò “kiến tạo” của Nhà nước trong chuyển giao công nghệ, xây dựng chuẩn đầu ra, xúc tiến thương mại và kết nối thị trường.

Rong biển không chỉ là sinh kế mới mà còn là lời giải cho bài toán phát triển bền vững ven biển. Khi từng nhánh rong được nuôi trồng bài bản, gắn với du lịch trải nghiệm, bảo tồn sinh thái và chuỗi giá trị xanh, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên trở thành trung tâm rong biển của khu vực và toàn cầu. Để làm được điều đó, cần sự đồng hành của chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học và người dân - cùng gieo những mầm rong hôm nay cho một tương lai biển xanh, sinh kế xanh và kinh tế xanh mai sau.

Hồng Thắm - Duy Học
Trương Khánh Thiện
Hồng Thắm - Duy Học
Hồng Thắm - Duy Học