Đầu tháng 11, thời tiết ở vùng cao Lào Cai trở lạnh, trời mưa phùn mau hạt. Chúng tôi di chuyển trên con đường gần 30 cây số từ Bắc Hà đến xã Bản Liền để tìm hiểu về sản phẩm chè hữu cơ theo tiêu chuẩn EU, Mỹ, Canada của đồng bào Tày nơi đây.
Sau gần 2 tiếng đồng hồ chật vật, nín thở vượt đoạn đường lầy lội, sạt lở ngổn ngang do đợt mưa lũ hồi đầu tháng 10 vừa qua, nhiều đoạn phải dò trong màn sương mù dày đặc, chúng tôi đến trung tâm xã Bản Liền nằm dưới một thung lũng khá bằng phẳng, bao quanh là núi non trùng điệp. Chính tại vùng đất gần như biệt lập này, cây chè shan tuyết đã trở thành hồn cốt và là sinh kế gần như duy nhất của người Tày, người Mông.

Trong ngôi nhà sàn khang trang bằng gỗ táu còn thơm mùi sơn mới, ông Vàng A Thặn (người dân tộc Tày ở thôn Đội 2, xã Bản Liền) niềm nở tự tay pha ấm chè quý mời khách. Nhìn làn khói trắng mỏng bay lên từ chén trà, ông cười hiền: "Ấm trà này do chính tay tôi hái và tự sao bằng chiếc bom chè đặt ở phía chái nhà kia. Ngôi nhà này riêng tiền công đã hơn 150 triệu đồng, chủ yếu nhờ cây chè mà có. Tôi tích cóp tiền bán chè búp tươi cho hợp tác xã (HTX), cộng thêm tiền bán 3 con ngựa nữa là dựng được.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bản Liền này, cả đời cụ, đời ông, đời bố, đời tôi và các con nữa là 5, 6 đời rồi. Mở mắt ra đã thấy ở đây có cây chè shan rồi. Cái tên Bản Liền đã có từ xa xưa, không ai biết rõ vì sao lại gọi như vậy, chỉ biết rằng nó đã gắn liền với cuộc sống của người dân từ bao đời”.
Hỏi về cuộc sống xưa kia, ông Thặn thoáng một chút đăm chiêu cho biết hơn chục năm về trước cuộc sống của bà con ở nơi đây khó khăn lắm. Ngày đó dù đã có cây chè nhưng chưa trở thành hàng hóa, thu nhập không đáng kể nên vẫn đói.


Những cây chè trăm tuổi mọc tự nhiên, không theo hàng, theo lối. Người dân hái về chủ yếu để uống hoặc làm nước tắm. Nhiều hộ cũng sao chè khô để bán nhưng thu nhập chẳng đáng là bao. Cây chè lúc đó chỉ như một món quà của tự nhiên, chưa phải là sinh kế bền vững.
Khoảng 15 năm trở lại đây, những lớp tập huấn về trồng chè, chăm sóc cây chè được mở ra. Nhà nước cử cả các đội tình nguyện về giúp bà con xã Bản Liền trồng dặm chè để tạo thành vùng sản xuất hàng hóa, từ đó người dân trong xã mới vỡ vạc ra nhiều điều. Họ học được cách đốn tỉa, cách chăm sóc cây chè để cho năng suất, chất lượng tốt nhất.
Chính kỹ thuật đốn tỉa thường xuyên đã làm cho những cây chè shan trăm tuổi ở Bản Liền vẫn thấp lè tè, không cao vút như ở nhiều nơi khác. Đốn tỉa làm chè bật nhiều búp non hơn và giúp người dân dễ dàng thu hái.
Ông Thặn chia sẻ: “Chúng tôi đã họp thôn ra quy ước, nhà nào dùng thuốc trừ cỏ phun vào nương chè sẽ bị phạt không thu mua sản phẩm, thậm chí phải làm cỗ xin lỗi dân làng. Bởi mọi người hiểu rằng, chỉ một lần phun thuốc sẽ làm ảnh hưởng đến "nồi cơm" của cả làng.

Nếu có sâu bệnh gì, hộ dân phải báo đến thôn, thôn báo đến xã... Xã sẽ cùng chuyên gia của HTX về kiểm tra vườn chè xem cần giải pháp gì để xử lý. Sau đó, giám đốc xưởng chè sẽ cung cấp chế phẩm sinh học làm từ hành, tỏi… để phun đuổi sâu bọ”.
Cách làm chè sạch đến mức thuần khiết ấy đã biến cây chè shan tuyết thành "vàng xanh" trên vùng đất này. Người dân Bản Liền yêu quý và bảo vệ cây chè. Họ không chỉ giữ gìn những cây chè cũ, hàng năm hộ nào cũng hái quả về tự ươm và nhân giống, trồng dặm vào nương chè của mình.
Giờ đây, cây chè đã thực sự trở thành nguồn thu chính của cả làng. Ông Thặn hiện có khoảng 3ha chè shan, với giá bán chè búp tươi từ 18.000 - 20.000 đồng/kg, mỗi năm có thu nhập hơn 100 triệu đồng. Thu nhập từ cây chè giúp họ trang trải cuộc sống, lo cho con cái ăn học và tích cóp cho những việc lớn. Dù không biết chính xác sản phẩm chè của mình xuất khẩu đi những đâu nhưng ông Thặn và người dân Bản Liền luôn tự hào vì họ đang bán đi những mầm xanh tinh tuý của núi rừng.

Bản Liền - cái tên gợi lên sự gắn kết nhưng lại là vùng đất dường như bị cô lập bởi địa lý. Khu vực trung tâm xã nằm trọn trong một lòng chảo, bao quanh là những dãy núi cao sừng sững. Để có thể hiểu được vì sao hàng trăm hộ dân ở một xã vùng cao này lại đặt sinh kế vào cây chè shan tuyết, chúng tôi tìm gặp ông Vàng A Dương, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Bản Liền.
Trong căn phòng làm việc nhỏ, ông Dương trầm ngâm như thể lật giở lại từng trang ký ức: 20 năm về trước, khi đường chưa thông, vùng đất này hầu như bà con toàn đi bộ, đi ngựa.
Cái thời chưa có đường ấy, sản vật quý giá nhất là chè cũng chỉ có thể sử dụng sức người, sức ngựa thồ xuống khu vực chợ trung tâm Bắc Hà. Vài cân chè muốn đem ra chợ đổi lấy mớ rau, con cá cũng phải gùi trên lưng, vượt suối, băng rừng mất cả ngày trời.
Sự cô lập về giao thông kéo theo cái đói triền miên. Trước năm 1995, dù đất lúa khá lớn nhưng chỉ cấy giống địa phương, năng suất rất thấp, nhiều vụ mất mùa. Hầu như bà con chỉ đảm bảo lương thực được trong khoảng 4 - 5 tháng trong năm. Thời gian còn lại toàn ăn ngô, sắn, khoai.
Cái đói nghèo hằn lên cả những nếp nhà. Hồi đấy người Tày ở đây sống trong những nếp nhà tạm bợ, đồng bào Mông ở nhà trình tường bằng đất… Cả vùng này tối tăm vì không có điện lưới quốc gia, không đài, không tivi, xa lạ với thế giới bên ngoài. Giữa bức tranh xám xịt bởi đói nghèo và biệt lập ấy, cây chè shan tuyết vẫn âm thầm bám rễ, gắn bó với dân bản.


Ông Dương kể, không ai biết chính xác cây chè shan có từ bao giờ, loài cây này như một phần máu thịt của đất Bản Liền. Các già làng kể khi sinh ra ở đây đã thấy cây chè rồi. Ban đầu chỉ có người Tày là trồng chè và thu hái để bán. Từ khoảng năm 2005 trở lại đây, được sự hỗ trợ của Nhà nước, cây chè mới được mở rộng ra các thôn bản người Mông, người Nùng, người Dao. Hiện toàn xã có vùng nguyên liệu chè shan hơn 1.140ha, tập trung chủ yếu ở các thôn Đội 2, Đội 3, Đội 4 và Pắc Kẹ.
Tôi hỏi ông Dương, cây chè quan trọng với người Bản Liền đến mức nào? Ông trả lời không một chút đắn đo: “Không có cây chè shan thì không biết bà con ở đây sẽ có thu nhập từ thứ gì khác. Lúa ngô chưa đủ ăn. Cây chè độc tôn bởi thích nghi được trước sự khắc nghiệt của thổ nhưỡng, khí hậu. Đất Bản Liền rất cằn cỗi, chủ yếu đất pha cát sỏi và độ dốc lớn. Những cây khác như cây quế trồng 30 năm cũng chỉ to hơn cái cốc”.
Người dân Bản Liền bắt đầu làm chè hữu cơ từ những năm 2005 - 2006. Thời điểm đó, HTX Nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà được thành lập, hàng trăm hộ dân trong xã phát triển kinh tế từ chè đã trở thành thành viên của HTX. Đến nay, HTX có gần 300 thành viên với diện tích chè đạt chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn Châu Âu, Mỹ, Canada hơn 1.140ha, chiếm gần 100% diện tích chè toàn xã. Chỉ còn số ít hộ người dân tộc Mông chưa làm chè hữu cơ vì đã quen với tập quán sản xuất lạm dụng thuốc trừ cỏ.


Theo ông Dương, khi tham gia HTX, nếu hộ dân nào vi phạm, sử dụng phân bón hóa học hoặc phun thuốc trừ cỏ sẽ bị phạt. Hình phạt không phải bằng tiền mà phạt không thu mua chè tươi của cả nhóm hộ hoặc cả thôn đó. Chỉ một người sai, cả làng chịu vạ. Điều này tạo ra một cơ chế tự giám sát lẫn nhau vô cùng chặt chẽ.
Nhờ làm hữu cơ, người dân được hưởng lợi kép, vừa giảm chi phí đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vừa đảm bảo sức khỏe cho chính mình. Ở Bản Liền rất ít người bị mắc các loại bệnh hiểm nghèo ung thư.... Hiện số người già trên 90 tuổi còn rất nhiều. Làm chè sạch, họ được sống khoẻ, sống thọ trên mảnh đất sạch, nguồn nước sạch.
Hiện diện tích đất để mở rộng vùng chè không còn. Vì vậy định hướng của xã sẽ vận động bà con trồng dặm để tăng mật độ, áp dụng kỹ thuật đốn tỉa khoa học để tăng năng suất. Từ đó vừa hạn chế được cỏ dại, vừa giảm công chăm sóc, làm cỏ.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Bản Liền nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã xây dựng 3 khâu đột phá trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Trong đó có khâu đột phá về du lịch, hiện địa phương đã có 8 hộ làm homestay. Và cây chè, một lần nữa lại là hồn cốt của sản phẩm du lịch địa phương. Khách du lịch, nhất là khách Tây rất thích thú khi đến đây cùng bà con lên đồi thu hái, sao chè và mang những ấm trà thơm về nước họ. Từ đó giúp bà con có thêm thu nhập và niềm tin để gắn bó bền vững với những đồi chè tinh khiết.


Năm 2006, Bản Liền lúc ấy là vùng đất hoang vu gần như biệt lập, không điện lưới, không sóng điện thoại, không một con đường tử tế... Giữa sự khắc nghiệt ấy, có một chàng trai 24 tuổi đã từ bỏ công việc ở một công ty chè nhà nước, phiêu bạt lên đây mang theo khát vọng làm chè hữu cơ.
Anh là Phạm Quang Thận, khi đó là thanh niên chưa vợ, với nhiệt huyết của tuổi trẻ đã vượt núi, băng rừng lên mảnh đất này. Sau gần 2 thập kỷ gắn bó, giờ anh Thận đã là Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà. Từ một xưởng chế biến chè chạy bằng máy nổ, giờ đây HTX của anh đã trở thành một mô hình sản xuất hữu cơ nổi tiếng khắp tỉnh, hàng năm xuất khẩu hàng trăm tấn chè sang các quốc gia Châu Âu như Pháp, Đức, Ý, Hà Lan...
Do công việc đột xuất nên tôi chỉ kịp gặp được anh Thận tại một quán cà phê vào buổi tối tại trung tâm Bắc Hà. Người đàn ông có dáng vẻ xởi lởi nhưng ánh mắt sắc sảo vẫn nhớ như in cái ngày anh vào Bản Liền.


"Thật ra đến đây là một cái duyên. Trước tôi làm ở Công ty chè Phú Đa (Phú Thọ). Tôi thấy nông dân dùng quá nhiều hóa chất độc hại cho cây chè. Thế là tôi rời đi để tìm vùng chè sạch cho những ấp ủ riêng của mình. Ngày mùng 10 tháng Giêng năm 2006 tôi đặt chân đến đây với mục tiêu tìm hiểu xem nguyện vọng nông dân có làm chè hữu cơ không", anh Thận kể.
Theo anh Thận, Bản Liền khi đó là vùng đất "có tiền không tiêu được" vì xa xôi, hẻo lánh, đi lại vất vả. Trước anh Thận đã có 3 người lên tìm hiểu vùng chè này nhưng cả 3 đều bỏ cuộc.
“Giai đoạn trước năm 2010, Bản Liền chưa có điện lưới. Mọi thứ đều khó khăn, thiếu thốn. Cả tuần chỉ có một phiên chợ ngoài trung tâm Bắc Hà, may ra mua được miếng thịt lợn là quý lắm. Khi đó vùng chè ở đây có gần 300ha được trồng thưa thớt, già cỗi. Nông dân thu hái vừa dài vừa già, 1 tôm tới 4 - 5 lá, thậm chí hái cả cành cho nặng cân, bán với giá rẻ mạt. Cây chè không có giá trị”, anh Thận nhớ lại.
Ba tháng trời ròng rã, chàng thanh niên 24 tuổi đi bộ khắp các thôn bản. Sáng ăn bát cơm nguội, trưa cầm gói mì tôm vào nhà dân ăn tạm. Người dân ở đây khó khăn lắm, chè không có đầu ra. Chứng kiến khó khăn của người dân, anh Thận càng có thêm động lực để ở lại mảnh đất này.


5 năm đầu tiên mòn mỏi chờ điện lưới cũng là 5 năm trầy trật. Cái nhà xưởng rộng hơn 400m2 được dựng lên bằng sức người, bằng ròng rọc gỗ để kéo những cột kèo cao 7 - 8 mét lên. Mọi thứ từ tấm lợp, viên gạch lát nền... đều phải cõng từ dưới xuôi lên.
Xưởng xây xong, máy móc về nhưng không có điện, giải pháp duy nhất là dùng máy nổ. Mỗi lần chạy máy nổ phải ra Bắc Hà chở từng can xăng, can dầu. Rất kỳ công mà đốt dầu thì tốn kém, lại ô nhiễm, ảnh hưởng đến chất lượng chè nên sản phẩm khó bán.
Cuối năm 2010, Bản Liền có điện lưới quốc gia. Đó là một cú hích thay đổi vận mệnh HTX và bà con vùng chè. Nhưng tiền đâu để đầu tư máy móc mới thay thế dàn máy chạy dầu. Anh Thận tìm đến một ngân hàng ở Bắc Hà vay 500 triệu nhưng bị từ chối vì ở đây đã dính một vết nợ xấu từ một dự án chè trước đó.
Không nản lòng, một lần nữa anh phải huy động vay vốn từ bên ngoài với lãi suất cao gấp đôi ngân hàng. Có tiền, HTX đầu tư máy sao, sấy mới.
Để quảng bá sản phẩm, mỗi năm HTX bỏ ra vài trăm triệu đồng để tham gia Hội chợ Biofach (Đức). Tuy nhiên, sau mấy năm chưa bán được hàng, HTX chỉ đủ duy trì trả lãi vay bên ngoài. Các đối tác yêu câu gửi mẫu nhưng vẫn phàn nàn vì vị chát đắng của trà Việt.
“May mắn, có một vị khách người Pháp là giám đốc Công ty BQ Tible khi sang Việt Nam đã tìm vào Bản Liền đúng mùa mưa tháng tư. Đường lầy lội, xe ô tô hỏng. Ông Tây phải đi bộ gần chục cây số. Tôi nhờ hai công nhân ra đón ông ấy vào bằng xe máy. Khổ, ông Tây ấy nặng quá, vừa chở về gần đến xưởng thì xe nổ lốp vì quá tải.
Nhưng chính vị khách nếm trải đó đã cứu cả HTX. Ông ấy đồng hành với mình suốt 3 ngày 2 đêm để tham gia sao chè và chỉnh mẫu. Ông ấy bảo, cần đầu tư thêm thiết bị và phải làm nhiều loại trà chứ đừng chỉ làm một loại. Vị trà phải dịu nhạt, không được chát đắng”, anh Thận kể.


Sau chuyến ghé thăm của vị khách Tây, năm 2016 anh Thận dốc vốn đầu tư thêm công nghệ mới. Sau đó từ năm 2016 trở đi thị trường tiêu thụ ổn định dần.
Thành công của HTX Nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà không chỉ bởi máy móc, thiết bị mà chuỗi sản xuất được xây dựng dựa trên “lệ làng” và lòng tin.
Về “lệ làng”, làm chè hữu cơ phải có hệ thống thanh tra nội bộ (ICS). Chứng nhận hữu cơ là chứng nhận cho cả một vùng. Một nhóm có 70 - 80 hộ dân tự giám sát nhau, một hộ vi phạm thì tất cả nhóm hộ sẽ bị nhà máy không thu mua trong 3 tháng. Các hộ dân trong nhóm sẽ tự kiểm điểm và xử lí hộ vi phạm theo quy định của làng.
Về lòng tin, anh Thận xây dựng bằng 2 việc là trả tiền cho bà con sòng phẳng ngay sau khi cân chè và đồng hành, giúp đỡ họ trong lúc khó khăn.
Anh Thận cho hay: “Giai đoạn 2019- 2021, nhiều nhà máy đóng cửa, hạ giá do đại dịch Covid-19. Nhưng riêng HTX Nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà thì ngược lại vì chúng tôi đàm phán với khách hàng nước ngoài để họ ký hợp đồng và cam kết tài chính cho HTX. Họ tăng giá mua, chúng tôi cũng đẩy giá mua chè búp tươi cho xã viên.

Ngoài ra, HTX còn tận thu mọi thứ từ cây chè, tạo thu nhập quanh năm cho nông dân. Trong khi các nhà máy khác thường đóng cửa 3 tháng Tết vì không có nguyên liệu chè búp tươi thì chúng tôi vẫn mua chè tới tận giáp Tết. Tháng 12, nông dân đốn chè vứt lá già xuống đất. Chúng tôi tuyên truyền bà con tuốt lá bán trước khi đốn với giá 4.000 - 5.000 đồng/kg. Những mẻ lá già đó được sấy khô, nghiền thành bột mịn để xuất khẩu làm mỹ phẩm, thực phẩm. Chưa hết, chúng tôi còn thu mua cả quả chè để ép lấy dầu làm mỹ phẩm. Từ đó nông dân có thêm một khoản tiền tiêu Tết”.
Khi đã có thị trường ổn định, lòng tin của người dân tăng cao, HTX lại tiếp tục giải bài toán quá tải nguyên liệu. Ngày xưa bà con đốn chè đồng loạt. Đến vụ chè ra ồ ạt, nhà máy quá tải, chất lượng kém. Nhờ đã gắn bó với Bản Liền gần 20 năm, anh Thận phát hiện ra vùng này có 2 - 3 tiểu khí hậu khác nhau. Đội 4 ở trên cao, đất cát, lạnh hơn, búp sẽ ra sớm. Đội 3 ở vùng thấp, nắng hơn, ra sau 10 - 15 ngày.
Vì vậy HTX vận động người dân đốn chè làm 2 đợt vào tháng 12 và tháng 5. Hái hết vườn này, xong sang vườn kia, lại có tiền. Nhờ đốn chè lệch thời gian ở từng vùng nên nhà máy lúc nào cũng có chè nguyên liệu, nông dân lúc nào cũng có tiền.
“Hiện chúng tôi mua chè tươi ở Bản Liền khoảng 30 tỷ đồng/năm. Nhiều hộ có thu nhập từ 90 - 110 triệu đồng/năm từ đồi chè, cái nghèo ở Bản Liền giảm dần.
Tương lai, HTX sẽ nâng cấp nhà máy. Khi chính quyền giao đất, chúng tôi sẽ đầu tư một nhà máy chế biến tinh tại chỗ và trưng bày sản phẩm phục vụ du lịch. Mục tiêu là xuất khẩu trực tiếp sản phẩm chè từ Bản Liền đi Châu Âu chứ không phải xuất thô qua trung gian nữa”, anh Thận chia sẻ.

Tin liên quan
Chuyển đổi chè hữu cơ: Bước ngoặt cho nông dân và môi trường
THÁI NGUYÊN Từ ngày sử dụng phân hữu cơ và các chế phẩm vi sinh, cây chè không còn xuất hiện bệnh hại, năng suất tăng 20% so với khi chưa chuyển đổi.
Thị trường chè hữu cơ toàn cầu sẽ lên tới hàng tỷ đô la
Nhu cầu sử dụng thực phẩm lành mạnh đang giúp cho thị trường chè hữu cơ liên tục tăng trưởng trên toàn cầu và sẽ đạt hơn 2 tỷ USD năm 2031.
Hiện thực ước mơ xây dựng vùng chè sạch, hữu cơ
THÁI NGUYÊN Chị Bùi Thị Mai đang từng bước hiện thực ước mơ xây dựng vùng chè hữu cơ ở Hoàng Nông, tạo ra sản phẩm trà chất lượng cao, đáp ứng thị trường khó tính.
Nông trại chè trung du bên hồ Núi Cốc chuyển đổi sản xuất hữu cơ
THÁI NGUYÊN Nằm trên dải đồi phía đông bao quanh hồ Núi Cốc, nông trại trà trung du Thu Luân có vị trí và điều kiện canh tác thuận lợi để chuyển đổi sản xuất hữu cơ.




