Từ hạt thóc cứu đói đến mầm xanh tương lai

80 năm qua, ngành nông nghiệp và môi trường không chỉ là nền tảng kinh tế mà còn là “trụ cột an sinh” của đất nước. Từ những ngày đầu giành độc lập, ngành đã gánh trên vai sứ mệnh nuôi sống dân tộc và giữ vững độc lập, tự cường.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ, sau nạn đói năm 1945 khiến hơn 2 triệu người chết, lời kêu gọi “Tăng gia sản xuất, chống giặc đói, chống giặc dốt, chống ngoại xâm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành hiệu lệnh hành động. “Một hạt gạo là một hạt vàng” - lời nhắc giản dị ấy khơi dậy tinh thần lao động, đặt nền móng cho tư duy phát triển gắn liền giữa nông nghiệp, con người và quốc gia. Chính trong bối cảnh ấy, cuộc cải cách ruộng đất (1953-1956) ra đời, trao đất cho người cày, mở đường cho nông thôn Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới, nơi người nông dân trở thành chủ thực sự trên đồng ruộng của mình.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nông nghiệp miền Bắc không chỉ nuôi sống hàng chục triệu người mà còn là hậu phương lớn của tiền tuyến. Phong trào “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, các tổ đổi công, hợp tác xã... thể hiện tinh thần đoàn kết và ý chí tự lực của hàng triệu nông dân.

Ở miền Nam, giữa bom đạn, người dân vùng căn cứ vẫn kiên cường tạo nên những “vành đai xanh” ở Tây Ninh, Đồng Tháp Mười, U Minh; phát triển mô hình VAC (vườn - ao - chuồng) để tự cung tự cấp, nuôi quân bền bỉ. Những cải tiến kỹ thuật như giống lúa ngắn ngày đã khởi đầu cho cuộc “cách mạng xanh” đầu tiên trong lịch sử nông nghiệp Việt Nam.

Sau ngày thống nhất, đất nước kiệt quệ vì chiến tranh, sản xuất trì trệ, cơ giới hóa yếu, thiên tai liên miên, người dân vẫn sống trong cảnh tem phiếu. “Trong gian khó, những tư duy đổi mới đã nảy nở”, Thứ trưởng Tiến nhớ lại.

Từ Khoán 100 (1981) đến Khoán 10 (1988), người nông dân được giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài, được hưởng thành quả lao động sau khi hoàn thành nghĩa vụ. Chính sách ấy giải phóng sức sản xuất, mở ra cuộc “cách mạng đồng ruộng” chưa từng có, khi hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tạo nên động lực phát triển bền vững cho nền nông nghiệp.

Bước ngoặt lịch sử diễn ra năm 1989 khi Việt Nam xuất khẩu lô gạo đầu tiên. Chỉ 3 năm sau, lượng xuất khẩu vượt 1,5 triệu tấn, đưa Việt Nam từ quốc gia thiếu đói trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Cùng với gạo, nhiều cây trồng chủ lực khác như cà phê, hồ tiêu, điều, chè, cao su cũng được quy hoạch vùng chuyên canh, tạo nên nền nông nghiệp hàng hóa mạnh mẽ. Đến năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 62,5 tỷ USD, thặng dư thương mại 17,9 tỷ USD - những con số, theo Thứ trưởng Tiến, không chỉ phản ánh năng lực sản xuất mà còn là biểu tượng của sức sống nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.

Hành trình hội nhập toàn cầu từ sau khi gia nhập WTO năm 2007 đặt ra thách thức lớn hơn. Nông sản Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn xanh. Nhưng cũng chính áp lực ấy đã tạo ra sự chuyển mình mạnh mẽ, từ sản xuất truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, thông minh. Nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiên phong ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tự động hóa trong tưới tiêu, dinh dưỡng, dự báo thời tiết, giúp nâng giá trị gia tăng trên từng đơn vị đất canh tác.

Một trong những chương trình tạo dấu ấn sâu sắc nhất là Xây dựng nông thôn mới - “cuộc vận động toàn dân” bắt đầu từ năm 2010. Chỉ sau hơn một thập kỷ, bộ mặt nông thôn đổi thay toàn diện. Đến giữa năm 2025, có hơn 79% xã đạt chuẩn, 24 tỉnh hoàn thành 100% xã nông thôn mới. Thu nhập bình quân của nông dân đạt 55 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Những con số này không chỉ đo bằng kinh tế, mà là thước đo của niềm tin và sự trưởng thành của người nông dân Việt Nam.

Trải qua nhiều biến động, từ khủng hoảng tài chính châu Á 1997, dịch bệnh SARS 2003, đến đại dịch Covid-19, nông nghiệp Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội. Trong giai đoạn đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam không chỉ tự túc mà còn gửi gạo viện trợ tới Cuba, minh chứng cho tấm lòng nhân ái và tinh thần trách nhiệm quốc tế.

Nhìn lại chặng đường đã qua, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định: “Từ hạt gạo nuôi quân trong kháng chiến đến hạt gạo xuất khẩu nuôi sống thế giới hôm nay, hành trình của nông nghiệp Việt Nam là hành trình của ý chí, sáng tạo và khát vọng vươn lên”. Từ “bệ đỡ an sinh” của đất nước, nông nghiệp nay đang trở thành động lực xanh, bền vững, đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, tự tin giữ vững an ninh lương thực quốc gia và đóng góp tích cực vào an ninh lương thực toàn cầu.

Những thành tựu vượt bậc của nông nghiệp và môi trường Việt Nam hôm nay không phải là kết quả ngẫu nhiên, mà là kết tinh của một nền tảng vững chắc, được xây dựng từ tầm nhìn lãnh đạo, khung pháp lý đồng bộ và sức mạnh của khoa học công nghệ. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến ví von, nếu ví 80 năm phát triển của ngành như một cây lớn, thì Đảng và Nhà nước là gốc rễ, pháp luật là thân cây, còn khoa học công nghệ chính là nhựa sống nuôi dưỡng.

Sau công cuộc Đổi mới năm 1986, khi đất nước thoát khỏi cơ chế bao cấp, tư duy phát triển nông nghiệp cũng thay đổi căn bản. Nông dân không còn là người sản xuất phụ thuộc, mà trở thành trung tâm của nền kinh tế hàng hóa. Những nghị quyết chiến lược của Trung ương đã tạo ra bước ngoặt, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2022, xác định “nông nghiệp là lợi thế quốc gia, là trụ đỡ của nền kinh tế”. Theo Thứ trưởng Tiến, chính định hướng ấy đã khơi dậy khát vọng xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, nông dân làm chủ và nông thôn trở thành không gian phát triển trọng điểm.

Không chỉ dừng ở tầm nhìn phát triển sản xuất, Đảng và Nhà nước còn sớm đặt môi trường vào vị trí trung tâm của tiến trình phát triển. Từ Nghị quyết 41-NQ/TW năm 2004 đến Văn kiện Đại hội XIII, quan điểm “phát triển kinh tế hài hòa với bảo vệ môi trường” được khẳng định rõ ràng hơn bao giờ hết. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 ra đời như một bước chuyển lớn, khi bảo vệ môi trường không còn là nhiệm vụ “hậu phương” mà là một trụ cột phát triển song hành cùng tăng trưởng kinh tế. “Chúng ta không thể đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng. Phát triển phải được đo bằng chất lượng sống của người dân,” Thứ trưởng nhấn mạnh.

Trên nền tảng đó, hàng loạt luật mới được ban hành: Luật Đất đai 2024, Luật Tài nguyên nước 2023, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024. Các chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính hướng tới mục tiêu Net Zero 2050 được xây dựng, tạo khung pháp lý cho phát triển xanh, bền vững và có trách nhiệm với tương lai. Mỗi văn bản là một bước đi dài, thể hiện quyết tâm đưa Việt Nam trở thành quốc gia nông nghiệp phát thải thấp, quản lý tài nguyên minh bạch và hướng đến thịnh vượng chung.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, một trong những bước ngoặt mang tính lịch sử của giai đoạn vừa qua là việc hợp nhất hai bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo Nghị định 35/2025/NĐ-CP. “Đây là quyết định mang tính thời đại. Lần đầu tiên Việt Nam có một cơ quan thống nhất quản lý từ đất, nước, rừng, khí hậu đến sản xuất nông nghiệp và môi trường sống của người dân”, ông phân tích và chỉ rõ, sự hợp nhất này giúp bộ máy tinh gọn hơn, đồng thời khắc phục tình trạng chồng chéo trong quản lý, hướng đến điều hành thống nhất giữa phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên và ứng phó biến đổi khí hậu.

Cùng với cải cách thể chế, hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia cũng được hoàn thiện nhanh chóng. Hàng nghìn TCVN và QCVN về đất đai, thủy lợi, an toàn thực phẩm, môi trường được ban hành, giúp quản lý nhà nước trở nên rõ ràng, hiện đại và có thể đo lường. Dữ liệu quốc gia về đất đai, tài nguyên, khí tượng thủy văn và nông nghiệp đang dần được kết nối, tạo nền tảng cho quản trị bằng dữ liệu lớn. Dịch vụ công trực tuyến được mở rộng, giúp doanh nghiệp, HTX và người dân tiếp cận nhanh hơn, giảm chi phí và nâng cao tính minh bạch. Những cải cách về thủ tục, phân cấp, phân quyền mạnh mẽ giúp địa phương năng động hơn, doanh nghiệp có không gian sáng tạo lớn hơn, góp phần khơi thông nguồn lực.

Trong quá trình chuyển đổi ấy, khoa học công nghệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu thể chế là khung xương, thì khoa học chính là dòng máu nuôi sống cơ thể ngành. Dưới sự chỉ đạo của Bộ, mạng lưới gồm 21 viện nghiên cứu, 34 cơ sở đào tạo và hơn 180 phòng thí nghiệm được đầu tư hiện đại, kết nối chặt chẽ giữa nghiên cứu - sản xuất - đào tạo. Hơn 11.000 cán bộ khoa học đang làm việc trong các viện và trung tâm trên cả nước, trở thành lực lượng tiên phong trong chọn tạo giống cây trồng, phát triển công nghệ sinh học, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ viễn thám phục vụ quản lý tài nguyên, dự báo khí hậu, giám sát rừng và truy xuất nguồn gốc nông sản.

Thứ trưởng Tiến nhận định, khoa học công nghệ là chìa khóa đột phá của giai đoạn phát triển mới. Việc tăng đầu tư cho khoa học từ ngân sách nhà nước, kết hợp khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng, đang tạo ra sức bật mạnh mẽ. Một số viện và trường đã được định hướng trở thành trung tâm nghiên cứu và đào tạo ngang tầm khu vực, đóng góp vào năng lực cạnh tranh quốc tế của nông nghiệp Việt Nam. Công nghệ số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo không chỉ giúp nâng cao năng suất, mà còn giúp quản lý rủi ro và bảo vệ môi trường tốt hơn, từ dự báo khí tượng, điều hành thủy lợi, đến cảnh báo xâm nhập mặn hay giám sát phát thải.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, khi thế giới đang chuyển mình sang mô hình phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp Việt Nam không thể đi theo lối cũ. “Chúng ta đã đi qua giai đoạn tăng trưởng bằng mở rộng diện tích và khai thác tài nguyên. Giờ đây, nhiệm vụ mới là phát triển bằng tri thức, công nghệ và trách nhiệm với môi trường”, ông nói. Tinh thần đó cũng là định hướng cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp và môi trường giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050 mà Bộ đang triển khai.

Theo ông Tiến, mục tiêu cao nhất là xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, tuần hoàn và phát thải thấp. Trước hết, nông nghiệp không chỉ là sản xuất lương thực mà phải trở thành hệ sinh thái kinh tế - môi trường - xã hội. Điều này đòi hỏi mọi hoạt động, từ trồng trọt, chăn nuôi đến thủy sản, đều phải tính đến vòng đời sản phẩm và tác động môi trường. Mô hình nông nghiệp tuần hoàn, nơi chất thải từ lĩnh vực này trở thành đầu vào cho lĩnh vực khác, sẽ là hướng đi chủ đạo. Các phế phụ phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, chế biến sẽ được tái sử dụng để sản xuất phân bón, thức ăn chăn nuôi, năng lượng sinh học. “Không còn khái niệm bỏ đi trong nông nghiệp. Mỗi phế phẩm đều có giá trị, nếu chúng ta nhìn bằng con mắt của người sáng tạo”, ông nói.

Để hiện thực hóa mục tiêu phát thải thấp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện bộ tiêu chí về sản xuất giảm phát thải và dán nhãn “nông sản phát thải thấp”. Cách tiếp cận này không chỉ giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của các thị trường như EU, Nhật Bản hay Hoa Kỳ, mà còn mở ra cơ hội tham gia thị trường tín chỉ carbon. Việt Nam đang từng bước xây dựng cơ chế giao dịch carbon nội địa, hướng đến việc doanh nghiệp nông nghiệp có thể bán tín chỉ nhờ các hoạt động trồng rừng, canh tác thông minh hay chuyển đổi năng lượng.

Theo Thứ trưởng Tiến, trọng tâm phát triển thời gian tới nằm ở 3 trụ cột: đổi mới công nghệ, chuyển đổi năng lượng và quản lý tài nguyên bền vững. Trong nông nghiệp, các công nghệ tưới tiết kiệm, cảm biến độ ẩm, trí tuệ nhân tạo phân tích năng suất và dự báo sâu bệnh sẽ được mở rộng. Trong chăn nuôi, mô hình trang trại sinh học sẽ thay thế dần chăn nuôi công nghiệp thâm dụng kháng sinh. Ngành thủy sản hướng tới nuôi biển công nghệ cao, giảm sử dụng thức ăn công nghiệp, tận dụng năng lượng tái tạo và vật liệu phân hủy sinh học.

Song song với đó là quá trình “xanh hóa” trong quản lý môi trường. Việt Nam đã cam kết tại COP26 đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để thực hiện, Bộ đang thúc đẩy triển khai các dự án năng lượng tái tạo trong khu vực nông thôn, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hệ thống điện mặt trời trên mái nhà xưởng, tận dụng khí sinh học từ chất thải chăn nuôi. Mục tiêu là mỗi đơn vị sản xuất đều trở thành “tế bào xanh” trong tổng thể nền kinh tế carbon thấp. “Tăng trưởng xanh là hướng đi duy nhất để ngành trụ vững trước biến đổi khí hậu và cạnh tranh toàn cầu”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.

Tư duy quản lý môi trường cũng được thay đổi căn bản, từ “kiểm soát” sang “dự báo và phòng ngừa”. Công nghệ viễn thám, dữ liệu vệ tinh, cảm biến không khí và nước đang giúp Bộ xây dựng hệ thống giám sát môi trường theo thời gian thực. Các trung tâm dữ liệu khí tượng thủy văn được hiện đại hóa, kết nối liên thông với hệ thống cảnh báo sớm thiên tai, sạt lở, xâm nhập mặn. Thứ trưởng Tiến cho biết, đây sẽ là “lá chắn mềm” giúp bảo vệ sinh kế của hàng chục triệu nông dân, đồng thời hỗ trợ ra quyết định chính sách kịp thời, dựa trên bằng chứng khoa học.

Một trụ cột quan trọng khác là phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với bảo tồn đa dạng sinh học. Việt Nam hiện có hơn 14,8 triệu ha rừng, trong đó gần một nửa là rừng tự nhiên - nguồn tài nguyên quý giá để phát triển thị trường carbon, du lịch sinh thái và sản phẩm ngoài gỗ. Bộ đang phối hợp với các địa phương xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng, khuyến khích cộng đồng tham gia bảo vệ rừng gắn với sinh kế. “Mỗi cánh rừng không chỉ là tài sản sinh học mà còn là ngân hàng carbon của tương lai”, ông Tiến chia sẻ.

 

 

Để những định hướng ấy trở thành hiện thực, con người vẫn là yếu tố quyết định. Bộ đang tập trung đào tạo thế hệ kỹ sư nông nghiệp, chuyên gia môi trường mới, những người am hiểu khoa học, làm chủ công nghệ và có tư duy kinh tế xanh. Cùng với đó là việc hoàn thiện thể chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ sạch, tăng cường hợp tác công tư và mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút nguồn lực tài chính xanh. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Cánh cửa phát triển bền vững chỉ mở ra khi chúng ta có đủ năng lực khoa học và khát vọng sáng tạo”.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến: "Hành trình 80 năm của ngành nông nghiệp và môi trường là minh chứng rõ nhất cho sức mạnh của niềm tin và đổi mới. Từ một nền sản xuất tự cung tự cấp, Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, từ chỗ đối mặt với suy thoái môi trường, nay đang chủ động chuyển sang mô hình phát triển xanh và tuần hoàn. Những thành quả đó là nền tảng để bước tiếp vào giai đoạn mới, nơi “nông nghiệp xanh” không chỉ là xu hướng, mà là bản sắc của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển bền vững".

Lê Bền - Bá Thắng
Trương Khánh Thiện
Tùng Đinh
Xem thêm