Trong khi Bộ Nông nghiệp và Môi Trường chưa ban hành danh mục các loại thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên cây mắc ca, bà con có thể tham khảo một số khuyến cáo của Viện Khoa học Lâm nghiệp sau đây.
Bệnh xì mủ phát sinh mạnh trong mùa mưa
Bệnh xì mủ do nấm Phytophthora cinnamomi gây ra, thường xuất hiện trên thân và cành chính của cây mắc ca từ 3 năm tuổi trở lên. Dấu hiệu dễ nhận biết là các vết nứt dọc thân, chảy nhựa nâu cánh gián, lớp mô vỏ bên trong đổi màu từ nâu sang đen. Cây bị nặng có thể vàng lá, héo rũ và chết khô.

Triệu chứng bệnh xì mủ trên thân cây mắc ca. Ảnh: Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp.
Bệnh lây lan mạnh trong điều kiện ẩm ướt, đặc biệt vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 ở các tỉnh Tây Bắc. Nếu không kiểm soát kịp thời, bệnh có thể gây hại đến 20% diện tích, thậm chí làm chết hàng loạt cây. Nguồn bệnh tồn tại trong đất, nước tưới, dụng cụ canh tác và có thể lây qua động vật.
Để phòng và trị bệnh hiệu quả, cần áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Trước hết, theo dõi định kỳ 10 ngày/lần trong mùa mưa để phát hiện sớm. Khi phát hiện cây bị bệnh, cần cắt bỏ cành bệnh, cạo sạch vết bệnh và quét vôi từ gốc lên khoảng 1 mét, nên làm trước mùa mưa để đạt hiệu quả.
Cùng với đó, bà con cần chăm sóc đúng kỹ thuật, tỉa cành, bón phân hợp lý giúp cây khỏe mạnh, tăng đề kháng. Nếu tỷ lệ bệnh trên 5%, có thể phun thuốc sinh học chứa nấm đối kháng Trichoderma virens, T. hamatum hoặc T. viride. Trường hợp nặng hơn (trên 10%) cần sử dụng thuốc chứa Phosphorous acid, Mancozeb hoặc Metalaxyl-M phun vào buổi sáng khi trời khô ráo, phun từ chân đồi lên đỉnh theo chiều gió.
Áp dụng đồng bộ các biện pháp sẽ giúp kiểm soát bệnh hiệu quả và giữ vườn cây khỏe mạnh.
Bọ xít muỗi – loài côn trùng nhỏ, hiểm họa lớn
Bọ xít muỗi (Helopeltis theivora) là loài chích hút nhựa nguy hiểm, gây hại ở cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng. Chúng nhỏ chỉ 4,5–6 mm, màu đen xanh, mắt đỏ, râu dài gấp đôi cơ thể. Trứng bọ xít đẻ trong mô lá và ngọn, ấu trùng chuyển từ màu vàng sang xanh lục qua 5 tuổi.

Đặc điểm nhận biết của bọ xít muỗi theo từng tuổi. Ảnh: Viện Nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp
Bọ xít gây hại bằng cách chích hút dịch ở lá, ngọn, cành và quả non, gây vết thâm đen, biến dạng và rụng lá/quả. Chúng hoạt động mạnh vào sáng sớm, chiều mát và khi trời râm. Mức độ gây hại có thể vượt 50%, làm giảm nghiêm trọng khả năng ra hoa, đậu quả.
Để phòng trừ hiệu quả cần theo dõi định kỳ 15 ngày/lần quanh năm, đặc biệt trong giai đoạn cây ra lộc non. Bà con có thể dùng vợt bắt bọ xít trưởng thành, thu gom và tiêu hủy bộ phận bị hại, thực hiện chủ yếu từ tháng 2–4 (tại Lai Châu) và từ tháng 1–3 (tại Đắk Lắk).
Đồng thời, nên trồng hoa ven rẫy hoặc dưới tán cây để dẫn dụ thiên địch như kiến vàng, bọ ngựa, chim ăn sâu. Khi tỷ lệ hại vượt 5%, phun thuốc sinh học chứa Abamectin hoặc Azadirachtin, lặp lại sau 7–10 ngày nếu chưa hiệu quả. Trường hợp hại trên 10%, sử dụng thuốc có chứa Deltamethrin hoặc Etofenprox, tuân thủ đúng hướng dẫn để đảm bảo an toàn.
Rệp muội làm đen lá, cản quang hợp
Rệp muội (hay rệp mềm) là loài côn trùng nhỏ (1–3 mm), thường bám thành cụm ở lá, ngọn, hoa và quả non. Chúng sinh sản nhanh, đặc biệt khi thời tiết ấm. Rệp chích hút nhựa cây, làm quăn lá, biến dạng đọt non và khiến cây suy yếu, giảm năng suất. Ngoài ra, chất dịch của rệp tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, làm đen lá, cản quang hợp.
Cần thường xuyên theo dõi vườn, đặc biệt khi cây ra lộc non. Cắt tỉa cành, vệ sinh vườn thông thoáng. Bảo vệ thiên địch như kiến vàng, bọ rùa, ong ký sinh để hỗ trợ kiểm soát rệp muội tự nhiên và hiệu quả.
Hiện chưa có thuốc chuyên biệt cho rệp muội trên mắc ca nhưng bà con có thể dùng thuốc đã được cấp phép cho cây ăn quả khác như Abamectin và Azadirachtin. Khi sử dụng thuốc cần phun đúng kỹ thuật, đúng liều lượng, không lạm dụng hóa chất.
Mắc ca là cây ăn quả. Do đó bà con tuyệt đối không sử dụng thuốc BVTV không rõ nhãn mác, nguồn gốc xuất xứ và cần tuân thủ nguyên tắc "4 đúng" để không gây tồn dư thuốc BVTV trong trái, trong đất trồng.
Việc canh tác theo hướng an toàn là yếu tố quan trọng nếu muốn đưa sản phẩm mắc ca ra thị trường xuất khẩu. Phòng bệnh tốt, canh tác đúng cách sẽ giúp cây mắc ca phát triển ổn định, nâng cao hiệu quả kinh tế và góp phần xây dựng vùng nguyên liệu mắc ca bền vững cho Tây Bắc.