Giải quyết tình trạng "đói" thông tin
Nhiều năm qua, nghề nuôi biển tại Hải Phòng và Quảng Ninh dù sở hữu tiềm năng lớn nhưng vẫn loay hoay trong vòng luẩn quẩn như: rủi ro cao, ô nhiễm môi trường và bị ép giá. Tại Hội nghị sơ kết dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá song (mú trân châu) bằng lồng HDPE trên biển đạt chứng nhận VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm” tổ chức cuối năm 2025, câu chuyện về sự thiếu hụt thông tin kỹ thuật và thị trường đã được nhìn nhận là nguyên nhân gốc rễ của đói nghèo và rủi ro.
Mô hình được triển khai tại Cát Bà (Hải Phòng) và Vân Đồn (Quảng Ninh). Ảnh: Đinh Mười.
Bà Lương Thị Kiểm - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng thẳng thắn chỉ rõ: “Nghề nuôi cá song của thành phố đang đối mặt với nhiều rủi ro do hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, môi trường nước ô nhiễm. Đặc biệt, do yếu tố chủ quan, phần lớn người nuôi chưa tiếp cận được quy trình công nghệ cao, còn sản xuất dựa vào kinh nghiệm, sử dụng con giống trôi nổi. Đây chính là 'lỗ hổng' về thông tin khiến chi phí sản xuất tăng cao mà hiệu quả lại thấp”.
“Khi nắm rõ thông tin kỹ thuật, người dân chủ động kiểm soát được dịch bệnh. Khi có nhật ký nuôi trồng, con cá có lý lịch rõ ràng, từ đó mở toang cánh cửa tiêu thụ”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh nhấn mạnh.
Cùng chung quan điểm này, chia sẻ với Báo Nông nghiệp và Môi trường, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh - Trưởng phòng chuyển giao kỹ thuật thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Hải phòng (Người trực tiếp triển khai dự án) khẳng định: “Khó khăn lớn nhất không phải là kỹ thuật nuôi, mà là thay đổi thói quen cố hữu của bà con.
Trước đây, ngư dân 'đói' thông tin về an toàn sinh học nên thường dùng cá tạp làm thức ăn, gây ô nhiễm nguồn nước. Thông qua dự án, chúng tôi đã chứng minh việc sử dụng thức ăn công nghiệp và lồng nhựa HDPE không chỉ giúp cá lớn nhanh, đạt tỷ lệ sống trên 75% mà còn giải phóng sức lao động, giảm thiểu rủi ro khi bão gió”.
Để lấp đầy “lỗ hổng” này, năm 2025, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng đã triển khai mô hình nuôi cá song trân châu trong lồng HDPE tại Cát Hải (Hải Phòng) và Vân Đồn (Quảng Ninh). Dự án không chỉ hỗ trợ vật tư mà quan trọng hơn là cung cấp một luồng thông tin minh bạch về quy trình chuẩn và kết nối thị trường. Điểm khác biệt của dự án này là sự chuyển giao tri thức quyết liệt để thay thế tập quán cũ và giá trị cốt lõi mà dự án mang lại là giúp người dân tiếp cận và làm chủ quy trình VietGAP.
Điểm khác biệt của dự án này là sự chuyển giao tri thức quyết liệt để thay thế tập quán cũ. Ảnh: Đinh Mười.
Hiệu quả kép, lợi nhuận tăng, rủi ro giảm
Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh, chia sẻ, mô hình không chỉ là sự chuyển dịch về vật liệu từ gỗ sang nhựa HDPE chịu sóng gió hay đối tượng nuôi cá song trân châu lai tạo IVF, mà cốt lõi là sự chuyển dịch về dòng chảy thông tin.
Qua sơ kết cho thấy sự vượt trội của mô hình mới so với phương thức đại trà trên các chỉ số định lượng với tỷ lệ sống đạt 75,8% (vượt yêu cầu ≥75%); năng suất đạt 17 kg/m ³ (vượt 13,3% so với kế hoạch). Cá song trân châu cho tốc độ tăng trưởng tốt, đạt kích cỡ thương phẩm >1,1kg/con sau 1 năm.
Về kinh tế, chi phí sản xuất giảm 10.900 đồng/kg so với nuôi đại trà. Tổng lợi nhuận đạt hơn 635 triệu đồng/630 m³, tỷ suất lợi nhuận/vốn đầu tư đạt 34,66%. Đặc biệt, hiệu quả kinh tế cao hơn 69,8% so với mô hình đối chứng.
Nguyên nhân của sự gia tăng hiệu quả này một phần nằm ở việc lấp đầy các khoảng trống thông tin. Về kỹ thuật, quy trình VietGAP giúp tối ưu hóa hệ số thức ăn (FCR ≤ 2) và giảm thiểu thuốc/hóa chất. Về thị trường, việc liên kết tiêu thụ 100% sản phẩm với doanh nghiệp giúp minh bạch hóa giá cả, xóa bỏ cơ chế ép giá trung gian.
Với quy mô 630 m3 lồng nuôi, năng suất vượt 13,3% kế hoạch, lợi nhuận đạt hơn 635 triệu đồng, hiệu quả kinh tế cao hơn 69,8% so với phương thức nuôi truyền thống. Ảnh: Đinh Mười.
“Chúng tôi tiếp cận vấn đề từ góc độ quản trị rủi ro bằng tri thức. Thay vì nuôi theo cảm tính, người dân được trang bị quy trình VietGAP để kiểm soát các chỉ số môi trường và sức khỏe vật nuôi. Việc thay thế cá tạp bằng thức ăn công nghiệp (De Heus) không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà là sự thay đổi tư duy về kiểm soát nguồn bệnh đầu vào, một 'lỗ hổng' thông tin lớn mà người nuôi truyền thống thường bỏ qua”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh chia sẻ thêm.
Có thể thấy, kết quả triển khai mô hình cá song trân châu lồng HDPE năm 2025 đã chứng minh rằng, việc tăng cường thông tin trong sản xuất thông qua chuyển giao kỹ thuật và liên kết thị trường là tiền đề tiên quyết để giảm nghèo kinh tế bền vững.
Theo bà Lương Thị Kiểm - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng: “Thành phố đang quyết liệt tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng giảm khai thác, tăng nuôi trồng công nghệ cao. Kết quả của dự án này là minh chứng sống động cho thấy khi người dân được trang bị đầy đủ hạ tầng kỹ thuật và thông tin thị trường, nghề nuôi biển sẽ phát triển bền vững. Sở đề nghị tiếp tục nhân rộng mô hình, xem đây là giải pháp trọng tâm để nâng cao thu nhập cho ngư dân ven biển”.





























