Hằng năm, ở nước ta có một số lượng lớn giống thủy sản nhân tạo được thả về tự nhiên. Những con tôm, cá giống được sản xuất trong các trang trại và được ương dưỡng, chăm sóc, cho ăn hằng ngày trong điều kiện nuôi nhốt, nay thả về với môi trường tự nhiên. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu đầy đủ.

Hằng năm, ở nước ta có một số lượng lớn giống thủy sản nhân tạo được thả về tự nhiên. Ảnh: LK.
Những tác động không mong muốn của việc thả giống nhân tạo về các thủy vực tự nhiên có thể ảnh hưởng lâu dài đến hệ sinh thái. Do vậy trước khi thả giống vào tự nhiên, cần tìm hiểu đặc điểm của thủy vực, cấu trúc và thành phần loài, môi trường sống, thành phần thức ăn, từ đó xác định loài thủy sản và số lượng cần thả bổ sung và thời điểm thả giống thích hợp.
Thủy sản nuôi nhốt khó thích nghi trong môi trường tự nhiên
Ở nước ta chưa có các nghiên cứu dài hạn về đánh giá nguồn lợi thủy sản ở một thủy vực nhất định, so sánh nguồn lợi trước và sau khi thả bổ sung giống thủy sản. Các thủy vực được bổ sung giống nhân tạo thì nguồn lợi ở đó có được tăng lên hay không? Mức độ phục hồi quần đàn ra sao? Đàn giống nhân tạo khi thả về tự nhiên có được giám sát không? Sinh trưởng, tỷ lệ sống, sức khỏe và khả năng sinh sản của chúng như thế nào? Trong các thủy vực tự nhiên có nhiều địch hại, môi trường khắc nghiệt, trong khi khả năng tìm kiếm thức ăn, tự vệ và thích nghi của các loài thủy sản nuôi nhốt là rất hạn chế, nên liệu chúng có thể sống sót và sinh trưởng?.
Tác động đến di truyền, sinh sản và hệ sinh thái
Chúng ta đã biết rất rõ tác hại xâm lấn của các loài ngoại lai ở các thủy vực tự nhiên. Sự cạnh tranh quá mức vì nguồn tài nguyên có hạn, sự lai tạo giữa loài nuôi nhốt và loài tự nhiên sẽ dần tạo ra một giống lai có ưu thế, cạnh tranh trở lại với loài bản địa, hay sự săn mồi sẽ tiêu diệt lẫn nhau giữa loài ngoại lai và bản địa. Ngoài ra, thủy sản nuôi nhốt cũng có thể mang mầm bệnh vào trong các thủy vực, lây lan cho các loài khác. Trong khi đó các loài thủy sản sinh ra trong hoang dã không có hệ thống miễn dịch tự nhiên để chống lại những mầm bệnh mới từ loài thủy sản nuôi nhốt.
Thủy sản nuôi nhốt thường có tập tính, sinh lý và di truyền tương đối khác với thủy sản tự nhiên. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc thả thủy sản nuôi vào môi trường tự nhiên sẽ gây ra sự lây lan của các gene, làm giảm khả năng sống sót, sức sinh sản và cũng có thể làm thay đổi đáng kể cấu trúc di truyền bên trong và giữa các quần thể.
Trong môi trường tự nhiên, hệ thống thần kinh, trục điều hòa nội tiết sinh sản ở cá nuôi kém nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố môi trường hơn so với cá được sinh ra trong tự nhiên. Khi những thay đổi của tự nhiên như mùa vụ, thủy triều, chu kỳ trăng, quang kỳ, độ sâu hay dòng chảy thì sự cảm nhận và kích thích thay đổi về sinh lý sinh sản giữa cá nuôi và cá tự nhiên sẽ có sự khác biệt. Điều này dẫn đến sự lệch pha hoặc gây rối loạn trong chu kỳ sinh dục, giảm khả năng sinh sản, và lâu dài sẽ dẫn đến sự giảm sút số lượng trong quần thể thậm chí là biến mất của loài.

Chúng ta cần có nghiên cứu dài hạn về đánh giá nguồn lợi thủy sản ở một thủy vực nhất định, so sánh nguồn lợi trước và sau khi thả bổ sung giống thủy sản. Ảnh: LK.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc thả cá quy mô lớn vào các thủy vực tự nhiên mang lại rất ít lợi ích, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, đồng thời gây hại cho thủy sản tự nhiên. Hệ sinh thái vốn tự cân bằng một cách tinh vi, phức tạp vì liên quan đến nguồn tài nguyên sẵn có. Vì vậy việc đưa một lượng lớn cá thể mới có thể phá vỡ sự cân bằng của chuỗi thức ăn hay làm thay đổi chức năng của hệ sinh thái.
Trong một hệ sinh thái, sự cân bằng là rất mong manh. Nếu bổ sung số lượng lớn một loài nào đó, thì quần thể của các loài khác sẽ suy giảm do sự cạnh tranh không gian sống, môi trường và thức ăn. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc thả giống nhân tạo tác động tiêu cực đến sức khỏe quần thể và đa dạng sinh học trong các thủy vực.
Lời kết
Sức khỏe của một hệ sinh thái hay môi trường sống mới là điều quan trọng cho các quần thể thủy sinh vật tồn tại, sinh sôi và phát triển. Vấn đề cần quan tâm ở đây không phải là nguồn lợi giảm sút mà là sự suy thoái của môi trường sống hoặc do khai thác thủy sản quá mức.
Khi môi trường sống tốt, nguồn lợi và tính đa dạng sinh học sẽ tăng lên, nhưng nếu môi trường sống suy thoái, thì dù có thả bao nhiêu giống loài bổ sung, tái tạo thì chúng cũng khó tồn tại và phát triển. Thay vì chi phí tài chính cho việc mua giống thủy sản nhân tạo để thả về tự nhiên, chúng ta có thể ưu tiên để bảo tồn môi trường sống và duy trì sự cân bằng hệ sinh thái.
Can thiệp vào tự nhiên bằng cách thả giống thủy sản nhân tạo không phải là cách tiếp cận hiệu quả mà hãy để hệ sinh thái tự phục hồi bằng cách giảm mạnh áp lực khai thác thủy sản thậm chí cấm hoàn toàn.