Tôi nói không giống năm xưa là bởi khi đó, cuộc sống của đa số người dân nơi đây không chỉ thiếu thốn trăm bề, mà còn phải chịu “ấm ức” khi phần lớn đất canh tác, nguồn thu nhập chính của gia đình, bị thu hồi trắng. Khi tôi đến gặp để tìm hiểu viết bài phản ánh, họ vui mừng như bám được chiếc phao trong lúc chới với giữa dòng nước, niềm hy vọng thắp lên trên từng khuôn mặt khắc khổ.
Đó là vùng đất Đăng Hà, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, nơi cách đây 14 năm, tôi đã đến và đồng hành cùng người dân nghèo trong hành trình đòi lại quyền lợi của họ mà một số cá nhân đã cố tình làm sai. Hôm nay trở lại, Đăng Hà đã là xã nông thôn mới nâng cao, vô cùng yên bình, không còn “sóng gió” như năm xưa. Còn những con người năm ấy, dấu ấn thời gian đã in hằn trên đuôi mắt, nhưng nét khắc khổ năm xưa đã không còn. Họ vẫn vui mừng khi gặp tôi như xưa, nhưng không còn phải “nhờ vả” nữa.
Khi bài viết này lên trang, cái tên Đăng Hà có lẽ đã không còn trên bản đồ hành chính nữa. Bởi xã này sẽ sáp nhập với 2 xã khác là Thống Nhất và Phước Sơn, huyện Bù Đăng để thành lập xã mới Phước Sơn. Nhưng để dễ hiểu, tôi vẫn sẽ dùng tên Đăng Hà trong bài. Vì nội dung bài viết chỉ “gói gọn” ở Đăng Hà.
Gặp lại những người nông dân cũ
Ông Trần Văn Kiệm, năm nay 83 tuổi, ở thôn 2, xã Đăng Hà, một trong số những người dân đầu tiên tôi gặp năm xưa, nay đã râu tóc bạc trắng. Nhưng sức khỏe còn rất tốt. Nét khắc khổ năm xưa nay đã không còn, thay vào đó là một sắc diện hồng hào.

Vợ chồng ông Trần Văn Kiệm trò chuyện cùng tác giả (áo phông xanh). Ảnh: Trần Văn Bình.
Ngồi trong căn nhà mới xây của người con trai, vừa nhìn thấy tôi ngoài đường, ông nhanh nhẹn bước ra tận nơi đón bằng nụ cười hiền: “Ôi trời, bao năm không gặp cháu rồi. Nhớ lắm”. Ông còn đòi đỡ giúp tôi chiếc ba lô nặng trĩu trên vai.
“Chú còn nhớ cháu sao?”, tôi vui vẻ hỏi. Ông nói một hơi: “Sao quên được, chú còn nhớ tên thật của cháu nữa. Chỉ có cháu mới thấy lạ thôi. Vì ngày xưa cả nhà gần chục người còn ở trong cái chòi ghép bằng cây, lợp lá, nằm cheo leo trên bờ ao, không có đường nên xe máy phải để tít ngoài kia, lội bộ qua mấy đoạn mương nước”.
Cách đây 14 năm, ông Kiệm là chủ một “đại gia đình” gần 20 người, gồm vợ, con trai, con dâu, cháu nội ngoại. Tất cả chỉ trông vào gần 20ha đất khai hoang trồng điều và khoai mì. Nhưng điều vừa thu hoạch được 2 vụ thì bị cưỡng chế, thu hồi trắng. Thu hồi để giao cho doanh nghiệp trồng cao su, sau đó trích một phần lợi nhuận vào Quỹ an sinh cho người nghèo của tỉnh, trong khi chính những người bị thu hồi đất này đang là những người rất nghèo.
“Vợ chồng chú có 7 đứa con, chưa giàu nhưng đều ổn định mọi mặt. 2 ông bà già ngoài 80 này bao năm nay chẳng biết viên thuốc là gì. Như vậy là tốt lắm rồi, chẳng mong gì hơn nữa”, ông Trần Văn Kiệm vui vẻ nói.
Mặc dù vậy, hàng trăm hộ dân có đất bị thu hồi vẫn chấp nhận chủ trương, chỉ yêu cầu được hỗ trợ tiền công khai phá, bồi thường cây trồng trên đất và cấp cho họ một ít đất canh tác. Nhưng có người được hỗ trợ, người bị thu hồi trắng. Đó là lý do khiến họ khiếu kiện kéo dài.
Khi chúng tôi vào cuộc tìm hiểu mới thấy, chủ trương của tỉnh đã bị nhiều cấp dưới làm chưa đúng, khiến nhiều người đã nghèo nay còn nghèo hơn, gây bức xúc kéo dài. Đơn cử như số liệu về diện tích đất thu hồi, theo quyết định của tỉnh thì diện tích thu hồi là 1.100ha. Nhưng huyện lại đưa ra con số thu hồi lên tới 1.487ha.
Khi tôi nêu thắc mắc với tỉnh thì được vị Chánh văn phòng UBND tỉnh khi đó trả lời rằng, quyết định thu hồi của tỉnh là 1.100ha, còn con số 1.487ha thì phải hỏi ông Chủ tịch huyện. Đây chính là lý do khiến nhiều người không nằm trong diện bị thu hồi nhưng vẫn bị thu hồi và không được hỗ trợ.

Bà Trần Thị Lụa... Ảnh: Trần Văn Bình.
Sau khi viết và có nhiều loạt bài phản ánh vụ việc trên Báo Nông nghiệp Việt Nam khi đó (nay là Báo Nông nghiệp và Môi trường), chính quyền tỉnh cũng đã lắng nghe dân, vào cuộc xác minh và có những điều chỉnh kịp thời. Nhiều hộ dân đã được hỗ trợ tiền công khai phá. Và tùy theo diện tích bị thu hồi, được cấp từ 0,5-1ha đất sản xuất. Nhiều hộ khác còn giữ lại đất canh tác, không bị thu hồi do thời điểm khai hoang không nằm trong diện bị thu hồi theo quyết định của tỉnh.
“Lúc còn ở nhà cũ, chú vẫn giữ hết những tờ báo cháu viết đấy. Nhưng lâu ngày không kiểm tra, chỗ để báo bị mưa dột, thấm vào, mục hết, gỡ ra là mủn, nên đành bỏ. Ban đầu cũng tiếc lắm, nhưng sau chú tự an ủi, quá khứ rồi, thôi cũng nên quên”, ông Kiệm cười.
Rời nhà ông Kiệm, tôi tìm đến nhà bà Trần Thị Lụa, năm nay 63 tuổi, ở thôn 4, người đã photo những bài báo của tôi khi đó, kẹp trong hồ sơ gửi đi khiếu nại ròng rã hàng chục lần, ra tận Trung ương, bị chính quyền huyện, xã liệt vào nhóm “cầm đầu” đi khiếu nại quyết liệt. Vừa nhìn thấy tôi, bà Lụa mất vài giây ngạc nhiên, sau đó hồ hởi: “Bao năm rồi mà nhà báo còn nhớ tôi. Quý quá. Chị thì không chỉ nhớ mà còn giữ lại những bài báo hồi đó làm kỷ niệm”.



...Và những bài báo đăng trên Nông nghiệp Việt Nam được bà Lụa lưu giữ lại. Ảnh: Phúc Lập.
“Em nhớ nhà chị ngày xưa là nhà lá, ở gần trụ sở xã, nhưng không nhớ nhà nào”, tôi chào bà Lụa và nói. Vồn vã mời tôi vào nhà, bà đáp: “Đúng rồi. Hồi đó khu này làm gì có nhà xây. Bây giờ đường sá trải nhựa hết rồi, nhà san sát vậy, làm sao nhớ được”.
Sau khi lấy nước cho chúng tôi, bà Lụa đi vào trong một lúc rồi quay ra với một xấp báo đựng trong bao nhựa. Bà ngồi xuống, chậm rãi lấy ra từng tờ. “Đây là những bài báo của em, cũng gần đủ, nhưng nhiều bài chỉ còn cái photo. Hồi đó mang được những tờ báo này về đây khó lắm. Họ chặn hết, tịch thu như... đồ quốc cấm ấy. Mỗi lần chúng tôi muốn đi gửi đơn, là phải xuống tận Sài Gòn. Mà ngay cả đi ra ngoài cũng khó, họ theo sát, kiểm tra thấy hồ sơ là tịch thu”, bà Lụa kể.
“Bây giờ kinh tế gia đình chị có vẻ khá?”, tôi hỏi. Bà Lụa đáp: “So với hồi đó thì tốt hơn nhiều rồi. Ngày xưa ở nhà lá, lụp xụp, giờ nhà xây, đầy đủ tiện nghi. 6 đứa con đều đã trưởng thành và có gia đình riêng, tôi đã có hơn chục đứa cháu và 1 chắt rồi. 3 đứa con sau thì 2 đứa có bằng đại học, 1 cao đẳng. Giờ cũng chẳng thiếu thốn gì nữa”.
Đăng Hà hôm nay
Đăng Hà hôm nay đã thay da đổi thịt. Không còn những con đường thôn, xóm nhỏ như đường mòn, lầy lội và mịt mù bụi nữa. Thay vào đó là đường nhựa, bê tông hóa toàn bộ. Những căn nhà nhỏ như chuồng gà, chuồng chim, dựng tạm bằng những tấm ván, cây nhỏ được thay bằng nhà xây, bê tông, gỗ, bên trong đầy đủ vật dụng như bàn ghế gỗ, ti vi màn hình phẳng, nhiều nhà gắn máy lạnh. 2 bên đường là những vườn cao su, điều, cà phê, đồng lúa xanh mướt, vài con bò đang nhẩn nha gặm cỏ.
Đi vào các thôn, nhà cửa còn thưa thớt, nhưng không còn nhà tạm. Vật chất coi như đủ đầy, tinh thần cũng tương tự. Khung cảnh yên bình như bất kỳ một vùng quê nào khác. Không còn cảm giác ảm đạm, ngột ngạt như xưa.

Cánh đồng lúa ở Đăng Hà. Ảnh: Phúc Lập.
Còn nhớ 15 năm trước, đi từ TP. Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước theo QL14 hơn 30km thì đến ngã 3 Sao Bọng, rẽ phải để đi Đăng Hà, đây là đường ĐT755B, hay còn gọi là đường Sao Bọng. Từ ngã 3 này, đi hơn 33km nữa mới đến trung tâm xã.
Thời ấy, con đường này chỉ rộng chừng 6m, nhiều đoạn nằm cheo leo trên sườn đồi cao. Trên tuyến này có một đoạn đèo dài khoảng 4 cây số, người dân địa phương gọi là dốc 5 cây, do đường nhỏ, không trải nhựa, lồi lõm ổ trâu, lại nhiều “cua cùi chỏ” nên rất nguy hiểm. Không chỉ thế, do đường vắng nên thường xảy ra nạn cướp giật người đi đường.
Khi đến Đăng Hà, hạ tầng giao thông còn “thê thảm” hơn. Phần lớn là đường đất đỏ. Vào mùa mưa, đi trên đường không khác gì lội ruộng, bùn đỏ ngập đến ngang ống chân. Còn mùa khô, hình ảnh mà không nhiều người được chứng kiến, bởi chỉ ở vùng Đăng Hà mới có, đó là giữa trời nắng chang chang, nhiều người đi xe máy vẫn phải mặc áo mưa, không phải tránh mưa mà là ngăn bụi, và đeo khẩu trang vài lớp. Nếu không, chỉ chạy vài cây số là toàn thân sẽ đổi màu gạch cua, lỗ mũi cũng đặc nghẹt bụi, không thở nổi.

Trường mầm non Đăng Hà. Ảnh: Phúc Lập.
Bây giờ, đường Sao Bọng đã được mở rộng hơn 2 lần và trải nhựa. Đoạn đường đèo vẫn quanh co, nhưng đã dễ đi và khá đẹp, uốn lượn như dải lụa mềm trên sườn đồi. Quãng đường gần 70km từ TP. Đồng Xoài đến Đăng Hà nay đi khoảng 1 tiếng rưỡi, thay vì 4 tiếng như xưa.
Gặp một cán bộ lãnh đạo xã Đăng Hà không muốn nêu tên, ông cho biết, đã làm đơn xin nghỉ sau sáp nhập, vì cũng gần đến tuổi hưu. “Tôi sống ở đây đã mấy chục năm, chứng kiến từng giai đoạn 'lịch sử' của xã. Nghe nhà báo hỏi tôi mới có dịp nhớ lại, đúng là so với 15-20 năm trước thì Đăng Hà nay đã 'lột xác' hoàn toàn, không còn là xã đặc biệt khó khăn nữa. Từ chỗ không có gì trở thành xã nông thôn mới. Điện, đường, trường, trạm đều đạt chuẩn, thu nhập bình quân đầu người/năm đạt hơn 68 triệu đồng”, ông nói.
Ý tưởng “nông nghiệp xanh” cho Đăng Hà
Đó là định hướng của anh Nguyễn Thế Tùng, chủ trang trại sầu riêng rộng 55ha mang tên Nữ Hoàng (Queen farm). Trang trại nằm ở thôn 5, cách trung tâm xã đến 42km, là điểm xa nhất, sâu nhất của xã Đăng Hà. Mô hình canh tác theo quy trình hiện đại bậc nhất Bình Phước hiện nay. Thời điểm chúng tôi đến, trang trại bắt đầu thu hoạch vụ sầu riêng đầu tiên.

Anh Nguyễn Thế Tùng, chủ trang trại sầu riêng hiện đại bậc nhất Bình Phước. Ảnh: Phúc Lập.
Gặp Nguyễn Thế Tùng, chàng trai sinh năm 1983 này khiến tôi từ ngạc nhiên đến khâm phục. Tùng vốn là con nhà gia thế, từng có 7 năm du học tại Anh quốc, đã có bằng thạc sĩ về nghiệp vụ quản lý, lập kế hoạch, từng là giảng viên Đại học Hutech TP.HCM, có công ty riêng. Nhưng nhiều năm qua, anh lại chấp nhận dấn thân vào chốn “khỉ ho cò gáy này” để làm nông dân.
“Mô hình này ban đầu là ý tưởng của mẹ tôi (mẹ anh đã mất cách đây 2 năm - PV). Bà rất tâm huyết với nó. Còn tôi thì lại sẵn sàng vì mẹ làm tất cả. Vì thế, dù trước khi làm mô hình, tôi không có kiến thức gì về nông nghiệp, nhưng không muốn mẹ vất vả, một mình bươn chải nên xắn tay vào làm cùng mẹ. Và lúc này tôi mới bắt đầu tìm hiểu, học hỏi kiến thức từ sách vở nước ngoài, tham quan thực tế các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, rồi về lập kế hoạch xây dựng trang trại bài bản với quy trình canh tác chuẩn GlobalGAP và hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000. Toàn bộ quy trình tôi xây dựng từ đầu đến giờ đều chuẩn, không thay đổi gì. Và càng làm, càng gắn bó với thiên nhiên, tôi càng nhận ra, mẹ đã đúng, càng làm tôi càng thấy mình yêu công việc này”, Tùng nói.

Thời điểm chúng tôi đến, trang trại bắt đầu thu vụ sầu riêng đầu tiên. Ành: Trần Văn Bình.
Dẫn tôi ra tham quan vườn, anh Lê Văn Hiền, người gắn bó với trang trại từ những ngày đầu, hiện là quản lý cấp cao của trang trại, cho biết, quy trình canh tác của Queen farm đạt chuẩn châu Âu. Mục đích là để bảo vệ môi trường, đưa đất về “nguyên thủy”, tức sạch tuyệt đối.
Trong lúc đang tham quan vườn, tôi bỗng nghe tiếng loa phát thanh rẹt rẹt, rồi sau đó, một giọng nữ khá chuyên nghiệp đọc những nội dung về quy trình canh tác sầu riêng chuẩn và các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường. Nhìn lên cột điện trên đường lô sầu riêng, tôi nhìn thấy một chiếc loa màu trắng treo trên cao.
“Đây là hệ thống loa phát thanh do trang trại đầu tư, nội dung tôi soạn. Sau bản phát thanh ngắn này sẽ là những bản nhạc nhẹ. Tôi phát nhằm mục đích cho cây nghe”, anh Tùng khiến tôi ngạc nhiên, tưởng anh nói đùa. Nhưng sau đó, anh cười khẳng định: “Đây là sự thật chứ không đùa đâu. Cây nghe nhạc sẽ phát triển tốt hơn”.
Tôi hỏi: “Có cơ sở khoa học không?”. Anh đáp: “Chưa có nghiên cứu khoa học nào, nhưng tôi đã đọc một số tài liệu nước ngoài nói về lợi ích này. Giống như người ta nuôi gia súc, gia cầm cho nghe nhạc từ lâu rồi đấy”.

Đây là trang trại đầu tiên cho cây sầu riêng nghe nhạc. Chiếc loa màu trắng, gắn trên cột điện. Ảnh: Phúc Lập.
“Tôi đang xây dựng một đề án về phát triển nông nghiệp xanh, bền vững ở Đăng Hà. Sau khi việc sáp nhập địa phương hoàn tất và đi vào ổn định, tôi sẽ trình lên lãnh đạo xã mới để họ nghiên cứu, tham khảo. Mục đích nhằm phát triển bền vững những loại cây trồng chủ lực lâu đời ở đây, giúp người nông dân canh tác theo quy trình sạch, bền vững, đầu ra ổn định và nâng cao thu nhập”, anh Nguyễn Thế Tùng chia sẻ.