
Ông Nguyễn Thế Phước, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lào Cai kiểm tra hiện trường vụ sạt lở làm chết 2 người tại xã Xuân Ái trong tháng 7 vừa qua. Ảnh: Thanh Tiến.
Sự khắc nghiệt được mặc định bởi tự nhiên
Tỉnh Lào Cai là cửa ngõ vùng Tây Bắc. Vùng đất cội nguồn của nhiều nét văn hóa dân tộc bản địa, nhưng cũng là nơi tiềm ẩn những hiểm họa khôn lường bởi thiên tai. Làm thế nào để người dân được an cư trên mảnh đất lâu đời cha ông để lại chính là một “bài toán” khó khăn mà chính quyền và người dân nơi đây đang nỗ lực tìm lời giải.
Theo ông Nguyễn Thế Phước, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Lào Cai, vùng đất Lào Cai hiện nay được hợp nhất từ hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai cũ. Bao đời qua, nơi đây luôn tiềm ẩn sự khắc nghiệt được mặc định bởi tự nhiên. Địa hình phân tầng độ cao lớn, chia cắt mạnh bởi hàng trăm dãy núi cao, khe sâu và sông, suối chằng chịt. Hơn 80% diện tích tự nhiên của tỉnh có độ dốc trên 25 độ. Hai dòng sông lớn là sông Hồng và sông Chảy mang phù sa bồi đắp cho nhiều làng mạc ven bờ, nhưng cũng là nguồn cơn của những trận lũ bất ngờ từ thượng nguồn phía Trung Quốc đổ về. Xen kẽ giữa các dãy núi là hơn 100 dòng suối lớn nhỏ, hiền hòa vào mùa cạn nhưng có thể hóa thành lũ ống, lũ quét hung tợn chỉ sau vài giờ trong mùa mưa.

Địa hình dốc, chia cắt mạnh bởi sông, suối cộng thêm tập quán sinh sống bên sườn đồi núi càng làm tăng nguy cơ rủi ro. Ảnh: Thanh Tiến.
Trên nền địa lý hiểm trở ấy là bức tranh sinh tồn độc đáo của cộng đồng các dân tộc thiểu số như Mông, Dao, Tày, Giáy... Từ bao đời nay, cuộc sống của họ đã gắn chặt với núi rừng. Tập quán canh tác trên đất dốc, đặc biệt là tâm lý gắn chặt với đất đai - tư liệu sản xuất đã ăn sâu vào tiềm thức bà con. Mảnh nương, thửa ruộng không chỉ là nơi kiếm sống, đó còn là di sản của tổ tiên, là không gian tâm linh. Do đó, người dân thường chọn những sườn núi, những thung lũng dồi dào khả năng canh tác và gần nguồn nước để tiện cho việc trồng trọt, phát triển kinh tế. Dĩ nhiên, canh tác ở đâu thì dựng nhà ở đó.
Sự khan hiếm mặt bằng buộc người dân phải tự tạo ra không gian sống bằng thói quen san gạt, bạt ta-luy. Để có một nền nhà, họ phải cắt vào sườn núi, sau đó dùng chính đất đá ấy đắp ra phía sườn dốc. Hành động này vô tình phá vỡ kết cấu ổn định hàng trăm năm của sườn dốc, tạo ra những “vết thương” địa chất. Nước mưa dễ dàng thấm vào lớp đất đắp không được lu lèn kỹ, làm yếu đi chân ta-luy, biến chính ngôi nhà của họ thành một khối trượt tiềm tàng, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Biến đổi khí hậu thời gian gần đây xuất hiện như một chất xúc tác kinh hoàng, khiến những rủi ro tiềm ẩn bùng phát với tần suất và cường độ chưa từng có. Thời tiết trở nên cực đoan, khó đoán định. Những quy luật “trông trời, trông đất, trông mây” được đúc kết qua nhiều thế hệ dường như không còn chính xác. Mùa mưa không còn đến từ từ mà đổ ập xuống với những trận mưa cường suất lớn trong thời gian ngắn.
Những bi kịch đau thương
Lào Cai luôn phải hứng chịu gần như mọi loại hình thiên tai, từ rét đậm, rét hại, sương muối đến dông lốc, sét, mưa đá và đặc biệt là bộ 3 hủy diệt gồm: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất.
Năm 2024 trở thành một năm đầy bi thảm với mảnh đất vùng phên dậu này. Đã có tổng cổng 58 đợt thiên tai lớn nhỏ quét qua. Đỉnh điểm là cơn thịnh nộ của hoàn lưu bão Yagi từ ngày 7-11/9. Mưa như trút nước, có nơi lên trên 300mm/24 giờ, kết hợp với lũ thượng nguồn đổ về đã gây ra thảm họa kép gồm lũ lụt và sạt lở đất.

Dấu tích của thảm họa tại Làng Nủ năm trước. Ảnh: Thanh Tiến.
Chỉ trong thời gian ngắn đã có 200 người chết, 12 người mất tích, 152 người bị thương. Gần 48.000 ngôi nhà bị cuốn trôi, sập đổ, hư hỏng hoặc ảnh hưởng nặng nề do ngập lụt. Sinh kế của người dân bị hủy hoại khi hơn 18.700ha lúa và hoa màu bị vùi lấp, trên 412.000 con gia súc, gia cầm bị chết. Hạ tầng xã hội tan hoang với gần 300 công trình giáo dục, y tế và hơn 1.100 công trình thủy lợi bị hư hỏng, sạt lở. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính lên tới hơn 13.000 tỷ đồng.
Trực tiếp thị sát và chỉ đạo công tác tìm kiếm nạn nhân, khắc phục hậu quả của vụ sạt lở đất thảm khốc làm sập đổ 6 ngôi nhà, làm thiệt mạng 9 người tại thôn Át Thượng, xã Minh Xuân, huyện Lục Yên cũ (nay thuộc xã Lục Yên), đến nay, ông Phước vẫn chưa quên được những hình ảnh trong tấn bi kịch đau thương đó.

Ông Nguyễn Thế Phước chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả thiên tai tại huyện Lục Yên (cũ) trong đợt mưa lũ năm 2024. Ảnh: Thanh Tiến.
“Những ngôi nhà sàn xinh đẹp theo truyền thống của người Tày nằm nép bên những dãy núi đồi thanh bình, xanh mướt. Nơi đó họ đã sinh sống an toàn đời này sang đời khác mà chẳng bao giờ mảy may lo lắng thiên tai. Thế nhưng nó vẫn xảy ra một vụ sạt lở khủng khiếp đến vậy. Thiên tai quả thực không lường trước được,” giọng ông Phước trầm xuống.
An cư cho người dân vùng thiên tai là nhiệm vụ sống còn
Sau bão, hàng ngàn hộ dân ở khắp nơi trong tỉnh mất đi mái ấm do lũ cuốn trôi, đất đá vùi lấp. Bên cạnh đó, rất nhiều hộ dân không thể trở về nơi ở cũ bởi hiểm họa rình rập chực chờ cướp đi sinh mạng.
Chính vì vậy, việc tìm lời giải cho bài toán an cư của bà con trở thành nhiệm vụ sống còn của chính quyền tỉnh Lào Cai. Ưu tiên hàng đầu, không thể khác, là ổn định dân cư, di dời các hộ dân ra khỏi vùng nguy hiểm.

Khu tái định cư Làng Nủ giúp cho cuộc sống của người dân dần trở lại bình thường. Ảnh: Thanh Tiến.
Sau thảm họa năm 2024, Chính phủ đã có sự quan tâm đặc biệt, hỗ trợ hàng nghìn tỷ đồng để khắc phục hạ tầng và xây dựng các khu tái định cư mới. Con số này, dù rất lớn, nhưng vẫn chỉ là một phần nhỏ so với tổng thiệt hại hơn 13.000 tỷ đồng mà tỉnh phải gánh chịu.
Ông Phước chia sẻ: “Chúng tôi đã dành hơn 50% trong số đó để xây dựng các khu tái định cư. Hiện nay hàng loạt dự án đang được triển khai tại các địa bàn trọng yếu như Văn Yên, Văn Chấn, Lục Yên, Mù Cang Chải, Bắc Hà, Bảo Yên, Sa Pa…
Tuy nhiên, hành trình an cư không hề bằng phẳng bởi rất nhiều khó khăn. Do địa hình độ dốc lớn nên tìm được một khu đủ rộng và an toàn để xây dựng nhà ở, hệ thống giao thông, điện, nước và các thiết chế về văn hóa, sinh hoạt cộng đồng là hết sức khó. Thêm nữa, nguồn vốn có hạn trong khi nhu cầu là khổng lồ. Nếu thống kê toàn bộ những hộ nằm trong diện nguy hiểm thì có đến hơn chục ngàn hộ dân. Trong khi việc bố trí tái định cư tập trung chỉ được vài chục đến vài trăm hộ mỗi khu.

Hàng chục hộ đồng bào Mông và Dao cùng chung sống trong khu tái định cư Kho Vàng, xã Cốc Lầu. Ảnh: Thanh Tiến.
Nhưng thách thức hóc búa nhất, theo ông Phước, lại không nằm ở việc xây nhà, mà ở việc giải quyết bài toán sinh kế cho các hộ dân. “Khi đưa các hộ dân đến khu tái định cư tập trung, thường sẽ xa nơi sản xuất vài cây số, có khi 5-7 cây số. Nếu tiếp tục sản xuất nông nghiệp thì phải gắn với tư liệu sản xuất cũ. Ở xa quá thì chi phí đi lại, chi phí sản xuất tăng lên, người dân sẽ rất khó khăn.
Chính từ những trăn trở này, một phương án linh hoạt, thực tế hơn đã được tỉnh Lào Cai ưu tiên là thực hiện tái định cư xen ghép. Thay vì dồn toàn lực vào các khu tập trung quy mô lớn, tỉnh khuyến khích và hỗ trợ tối đa để các hộ dân tự di dời đến những nơi ở an toàn, xen ghép trong các khu dân cư hiện hữu.
Về chủ trương, tỉnh sẽ hỗ trợ về thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất, miễn giảm các loại thuế, phí để người dân có được đất ở an toàn. Cách làm này không chỉ giảm áp lực về vốn đầu tư hạ tầng tập trung, mà quan trọng hơn sẽ giúp người dân không bị tách rời hoàn toàn khỏi không gian sinh tồn và tư liệu sản xuất của họ, từ đó giải quyết được gốc rễ của vấn đề sinh kế".
Song song với việc đảm bảo nơi ở, tỉnh Lào Cai cũng quyết liệt trong việc khôi phục sản xuất, cải tạo những cánh đồng bị thiên tai tàn phá. Những nơi có thể khôi phục, tỉnh hỗ trợ người dân dọn dẹp để tái canh tác. Những nơi khó khăn hơn, tỉnh cho phép chuyển đổi sang trồng các loại cây khác như rau màu, cây ăn quả để người dân tiếp tục có thu nhập trên chính mảnh đất của mình.