| Hotline: 0983.970.780

Trồng dược liệu xóa nghèo cho đồng bào: [Bài 2] Tương lai cho trà hoa vàng

Chủ Nhật 14/12/2025 , 09:09 (GMT+7)

Trà hoa vàng là tên chung nhóm các loài trà có hoa màu vàng thuộc chi Camellia, họ Theaceae (chè), phân bố chủ yếu tại miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam.

Những khu bảo tồn của các cá nhân

PGS.TS. Trần Văn Ơn, Trường ĐH Dược Hà Nội kể: Trên thế giới đã ghi nhận khoảng trên 50 loài trà hoa vàng, trong đó gần 40 loài có phân bố tự nhiên tại Việt Nam. Do sự quý hiếm và phạm vi phân bố hẹp, hầu hết các loài trà hoa vàng đều đang đứng trước nguy cơ bị đe dọa. Ở Trung Quốc, kim hoa trà (Camellia chrysantha) từ những năm 1980 đã được xếp vào danh mục thực vật bảo hộ cấp I quốc gia, được ví như “gấu trúc vàng” của giới thực vật học. Quảng Tây thậm chí đã thành lập khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia kim hoa trà Phòng Thành từ năm 1986 với diện tích 9.195 ha để bảo vệ loài cây này và sinh cảnh của chúng.

Tương tự, tại Việt Nam, một số loài trà hoa vàng đã được đưa vào Sách đỏ. Ngay từ năm 2008, giới khoa học đã cảnh báo trà hoa vàng có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng khi ấy công tác bảo tồn hầu như còn bỏ ngỏ. Nguyên nhân chính đe dọa các loài trà hoa vàng đến từ việc mất sinh cảnh rừng và sự khai thác quá mức của con người. Cây trà hoa vàng vốn chỉ sống khỏe dưới tán rừng ẩm, cần độ che phủ và độ ẩm cao. Việc phá rừng để trồng keo hoặc thay đổi thảm thực vật khiến nhiều quần thể trà hoa vàng ngoài tự nhiên suy giảm nghiêm trọng. Mặt khác, cơn “sốt” dược liệu đã khiến người dân thu hái tràn lan hoa, lá, thậm chí đào cả cây và rễ trà hoa vàng bán cho thương lái.

Tại Quảng Ninh, giai đoạn 2006-2010, thương lái Trung Quốc lùng mua triệt để trà hoa vàng rừng, có thời điểm trả giá tới 2 triệu đồng/kg hoa tươi. Việc săn lùng ồ ạt này khiến nguồn gen trong tự nhiên gần như bị vét sạch. Thu hoạch toàn bộ hoa trong rừng cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tái sinh tự nhiên, do cây không thể kết quả để tạo cây con. Hệ quả là nhiều loài đứng bên bờ tuyệt chủng chỉ sau vài năm bị con người khai thác. Những loài cây sinh trưởng chậm, phải 5-7 năm mới ra hoa, lại kém cạnh tranh dưới tán rừng, càng khó phục hồi nếu không có sự can thiệp bảo tồn mạnh mẽ.

Làng bảo tồn dược liệu và trồng trà hoa vàng của chị Phạm Thị Lý. Ảnh: Dương Đình Tường.

Làng bảo tồn dược liệu và trồng trà hoa vàng của chị Phạm Thị Lý. Ảnh: Dương Đình Tường.

Trước nguy cơ đó, một số cá nhân và tổ chức đã âm thầm sưu tầm, lưu giữ và gây trồng trà hoa vàng. Điển hình như tại Lâm Đồng, bà Lê An Na - một nhà sưu tập tư nhân đã quy tụ được 44 loài trà hoa vàng, cả giống bản địa lẫn giống du nhập từ Trung Quốc trong khu vườn bảo tồn 10 ha của mình. Tương tự, Công ty dược liệu Vũ Gia (Ninh Bình) đang xây dựng một công viên trà hoa vàng với khoảng 30 loài để bảo tồn nguồn gen và phục vụ tham quan học tập. Trà hoa vàng cũng được bảo tồn tại Khu bảo tồn Nam dược Nhất Dương Sinh ở Võ Nhai (Thái Nguyên) và nhiều bộ sưu tập tư nhân khác. Những nỗ lực này góp phần lưu giữ đa dạng di truyền của trà hoa vàng ngoài phạm vi phân bố tự nhiên, phòng ngừa rủi ro tuyệt chủng.

Tuy nhiên, công tác bảo tồn trà hoa vàng vẫn cần được đẩy mạnh hơn nữa. Các chuyên gia khuyến cáo, cần sớm nghiên cứu đánh giá đầy đủ tình trạng quần thể từng loài, cập nhật danh mục đỏ và xây dựng kế hoạch bảo vệ. Việc thắt chặt quản lý khai thác thương mại cũng rất quan trọng, chỉ nên khai thác nguyên liệu từ những vườn trồng hoặc nguồn được cấp phép, tránh tận diệt trong tự nhiên. Đồng thời, cần tăng cường tuyên truyền để người dân địa phương thấy được giá trị lâu dài của loài cây này khi được bảo tồn và khai thác bền vững, thay vì lợi ích ngắn hạn.

Phát triển cộng đồng gắn với trà hoa vàng

Để phát huy tiềm năng của trà hoa vàng trong phát triển cộng đồng, người dân không thể chỉ trông chờ vào độ quý hiếm của nó, mà cần cả một hệ sinh thái: nghiên cứu, trồng trọt, chế biến, thị trường và cộng đồng. Trước hết, các nghiên cứu khoa học, nghiên cứu liên ngành về nhân giống, trồng và chiết xuất hoạt chất đóng vai trò then chốt. Tại Quảng Ninh, một đề tài khoa học đã thành công trong việc nhân giống vô tính trà hoa vàng bằng phương pháp giâm cành đạt tỷ lệ ra rễ trên 70%, cung cấp nguồn giống quy mô lớn cho người trồng.

Kỹ thuật nuôi cấy mô (in-vitro), dù còn khó, vẫn là hướng cần kiên trì. Các nghiên cứu dược lý, lâm sàng cũng đang dần chứng minh hiệu quả chữa bệnh của trà hoa vàng. Chẳng hạn, đề tài của Đại học Dược Hà Nội về trà hoa vàng Ba Chẽ đã bước đầu phân lập một số thành phần hóa học và khẳng định các dược tính quý của loài cây này - nền tảng quan trọng để phát triển sản phẩm chất lượng cao, đủ sức bước ra thị trường quốc tế.

Cận cảnh trà hoa vàng. Ảnh: Dương Đình Tường.

Cận cảnh trà hoa vàng. Ảnh: Dương Đình Tường.

Những nơi có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng phù hợp như Ba Chẽ - Quảng Ninh, Tam Đảo - Vĩnh Phúc, hoặc Nho Quan - Ninh Bình hoàn toàn có thể trở thành "thủ phủ" trà hoa vàng. Chính quyền địa phương có thể hỗ trợ người dân thông qua các chính sách như trợ giá giống, chuyển giao kỹ thuật và liên kết doanh nghiệp.

Tỉnh Quảng Ninh đã đi trước với chính sách hỗ trợ 70% chi phí giống cho các hộ tham gia dự án trồng trà hoa vàng liên kết với doanh nghiệp, đồng thời xây dựng mã vùng trồng để phục vụ xuất khẩu. Song song, cần chú trọng biện pháp thâm canh bền vững. Cây trà hoa vàng ưa bóng nên có thể trồng dưới tán rừng hoặc xen canh, vừa tạo thu nhập, vừa giữ được rừng. Việc trồng mới nên đi đôi với bảo tồn cây mẹ trong tự nhiên để duy trì đa dạng di truyền.

Nếu muốn cạnh tranh với kim hoa trà Trung Quốc, vùng trồng ở Việt Nam cần định hướng đạt tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế như Organic USDA. Để tăng tỷ lệ sống của cây con, cần hỗ trợ các vườn ươm lưu cây giống với thời gian lâu hơn và xuất vườn khi cây đủ khỏe.

GS Phan Văn Trường thử trà hoa vàng của chị Phạm Thị Lý. Ảnh: Dương Đình Tường.

GS Phan Văn Trường thử trà hoa vàng của chị Phạm Thị Lý. Ảnh: Dương Đình Tường.

Từ bông hoa vàng mỏng manh, doanh nghiệp có thể tạo ra nhiều sản phẩm: trà hoa sấy khô truyền thống, trà hòa tan, viên nang chiết xuất, trà túi lọc tiện dụng, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng hiện đại. Đồng thời, mở rộng sang lĩnh vực mỹ phẩm, thực phẩm chức năng với quy trình sản xuất đạt chuẩn.

Điều quan trọng là công nghệ chiết xuất, tinh chế hoạt chất và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt, đảm bảo hàm lượng hoạt chất trong sản phẩm cuối. Xây dựng chỉ dẫn địa lý hoặc thương hiệu vùng là chìa khóa để nâng tầm giá trị và uy tín sản phẩm trên thị trường. Một số sản phẩm trà hoa vàng OCOP của Việt Nam đã bắt đầu "chạm cửa" thị trường quốc tế. Do đó việc chuẩn hóa chất lượng theo các quy định xuất khẩu (Organic, GACP, GMP...) sẽ là khâu chuẩn bị quan trọng.

Nếu rừng là "mái nhà" của trà hoa vàng thì cộng đồng chính là người giữ lửa. Trà hoa vàng chỉ thật sự có ý nghĩa khi trở thành sinh kế cho người trồng. Mô hình HTX hoặc tổ hợp tác trồng trà hoa vàng nên được khuyến khích, giúp người dân liên kết sản xuất và tiêu thụ. Bên cạnh đó, du lịch sinh thái - dược liệu có thể trở thành nguồn thu mới. Công viên trà hoa vàng ở Ninh Bình hay vườn sưu tập ở Lâm Đồng, tất cả trở thành cầu nối để đưa trà hoa vàng bước vào đời sống một cách tự nhiên và bền vững.

(ghi)

Xem thêm

Bình luận mới nhất

Trồng dược liệu xóa nghèo cho đồng bào: [Bài 2] Tương lai cho trà hoa vàng
Phóng sự 8 giây trước