Tỉnh Quảng Ngãi sau sáp nhập có tổng diện tích tự nhiên gần 1,9 triệu ha, trong đó diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp đạt gần 1,1 triệu ha và diện tích đất có rừng lên tới hơn 893 nghìn ha.
“Đây là nguồn tài nguyên dồi dào, chứa nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội như du lịch sinh thái, kinh tế rừng, dịch vụ môi trường rừng và đặc biệt là thị trường các-bon”, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Quảng Ngãi Y Ngọc cho hay.
Tỉnh Quảng Ngãi sau sáp nhập có tổng diện tích tự nhiên gần 1,9 triệu ha. Ảnh: Võ Hà.
Về tiềm năng lâm nghiệp, các chuyên gia lâm nghiệp nhận định, đây là ngành duy nhất có lượng phát thải khí nhà kính âm, nghĩa là lượng các-bon hấp thụ lớn hơn lượng các-bon thải ra. Tính chất đặc thù này giúp ngành lâm nghiệp có nhiều cơ hội trong định lượng trữ lượng các-bon, phát hành tín chỉ các-bon và tham gia thị trường giao dịch trong nước cũng như quốc tế.
Quảng Ngãi sở hữu hai vùng khí hậu rõ nét, với vùng tây Trường Sơn với địa hình núi cao (đỉnh Ngọc Linh 2.600m), và vùng đông Trường Sơn nóng ẩm, thuận lợi phát triển cây lâm nghiệp - những yếu tố làm nên sự phong phú cho hệ sinh thái rừng. Qua điều tra sơ bộ, Quảng Ngãi có 853 loài cây dược liệu quý, hiếm, trong đó có 30 loài có nhu cầu lớn trên thị trường và khoảng 25 loài được trồng và sử dụng rộng rãi, có giá trị kinh tế cao, như sâm Ngọc Linh, đảng sâm, đương quy, ngũ vị tử...
Trong đó, tại khu vực phía tây của tỉnh, khí hậu mát mẻ quanh năm (18-20°C), độ ẩm cao, lượng mưa lớn, và hệ sinh thái rừng nguyên sinh ở vùng tây Trường Sơn đã tạo môi trường sống thuận lợi để phát triển Sâm Ngọc Linh và các dược liệu dưới tán rừng. Đồng thời, điều này cũn mở ra cơ hội để phát triển ngành nông nghiệp công nghệ cao.
Đến hết năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 9.798 ha dược liệu, với 2.922 ha Sâm Ngọc Linh, 1.211 ha Đảng sâm, đồng thời hình thành một số vùng trồng dược liệu tập trung, như vùng Sâm Ngọc Linh tại xã Măng Ri, xã Ngọc Linh và xã Xốp, vùng Sâm dây tại xã Tu Mơ Rông...
Theo ước tính, nguồn thu từ giao dịch tín chỉ các-bon có thể tương đương nguồn thu dịch vụ môi trường rừng hiện nay, hơn 350 tỷ đồng mỗi năm. Ảnh: Võ Hà.
Nguồn lực thiên nhiên lớn đi đôi với lợi ích kinh tế cao. Theo ước tính, nguồn thu từ giao dịch tín chỉ các-bon có thể tương đương nguồn thu dịch vụ môi trường rừng hiện nay, hơn 350 tỷ đồng mỗi năm. Riêng khu vực phía tây tỉnh có tiềm năng rất lớn với trữ lượng gỗ hơn 83,3 triệu m³, trên 1 tỷ cây tre nứa cùng nguồn lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế cao. Đây cũng là vùng rừng tự nhiên có giá trị lớn trong phòng hộ, bảo tồn và lưu trữ các-bon - những yếu tố quan trọng khi xác định tín chỉ các-bon rừng.
Tận dụng lợi thế này, ngành Nông nghiệp và Môi trường tỉnh đã phối hợp rà soát, đánh giá hiện trạng các hoạt động liên quan giảm phát thải khí nhà kính tại các địa phương phía tây. Việc đánh giá tiềm năng tín chỉ các-bon từ rừng tự nhiên được triển khai thông qua Chương trình giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+). Đây là bước đi quan trọng nhằm sẵn sàng tham gia thị trường các-bon khi cơ chế giao dịch được hoàn thiện.




























