Cần giải quyết thách thức về tài chính, quản trị và chuẩn hóa dữ liệu
Theo Bộ Công Thương, trong tiến trình giảm phát thải khí nhà kính, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNL TK&HQ) không chỉ là một giải pháp kỹ thuật - quản trị, mà còn là “nguồn năng lượng thứ nhất”. Nghĩa là có thể thấy được hiệu quả ngay, chi phí thấp và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.
Những năm qua, nhiều địa phương đã xây dựng kế hoạch hành động SDNL TK&HQ. Nhiều doanh nghiệp triển khai quản trị năng lượng, thay thế thiết bị hiệu suất cao, tham gia kiểm toán năng lượng định kỳ; phong trào hộ gia đình, tòa nhà xanh, chiếu sáng hiệu quả tiếp tục lan tỏa. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới về tăng trưởng xanh, chuyển dịch năng lượng và thị trường các-bon, thực tiễn chỉ ra vẫn còn không ít khó khăn, như: chi phí đầu tư ban đầu lớn, thiếu mô hình tài chính phù hợp; năng lực quản trị năng lượng chưa đồng đều; dữ liệu, đo lường - báo cáo - thẩm tra (MRV) giảm phát thải cần được chuẩn hóa...
Kiểm toán năng lượng trong nhà máy sản xuất công nghiệp giúp xác định các khẩu có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm điện. Ảnh:Khánh Ly.
Quản lý năng lượng và minh bạch dữ liệu
Tại hội nghị phổ biến chính sách, pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, ứng phó biến đổi khí hậu mới đây, ông Phạm Thành Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công Thương) cho rằng, để các quy định về SDNL TK&HQ gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và lộ trình chuyển dịch năng lượng, cần tiến hành đồng bộ 7 giải pháp.
Trước tiên là hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn thực thi. Các bộ, ngành, địa phương cần rà soát, cập nhật kịp thời các chương trình, kế hoạch SDNL TK&HQ; đồng bộ hóa với chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, quy hoạch năng lượng. Trong đó, phải cụ thể hóa trách nhiệm của cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm và quy định rõ tiêu chí, lộ trình thay thế thiết bị hiệu suất thấp. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường và gắn với cơ chế khuyến khích – ràng buộc phù hợp.
Về chuẩn hóa kiểm toán năng lượng và quản trị năng lượng doanh nghiệp, Bộ Công Thương đề nghị các cơ sở trọng điểm thực hiện kiểm toán năng lượng đúng kỳ hạn, trên nền tảng dữ liệu tin cậy. Đặc biệt, cần xây dựng kế hoạch tiết kiệm năng lượng khả thi, có mục tiêu và mốc kiểm chứng hằng năm; bố trí người quản lý năng lượng đủ năng lực. Doanh nghiệp có thể áp dụng hệ thống quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ ISO 50001) tùy điều kiện thực tế.
Về thúc đẩy quản lý nhu cầu điện và chuyển đổi số dữ liệu năng lượng, đại diện Bộ Công Thương cho rằng, quản lý phụ tải (DSM/DR) sẽ là chìa khóa giúp tối ưu hệ thống điện trong bối cảnh gia tăng nguồn năng lượng tái tạo. Cần mở rộng thí điểm, chuẩn hóa quy trình tham gia, cơ chế chia sẻ lợi ích, tích hợp công cụ số để đo - đếm - điều khiển thông minh. Đồng thời, đẩy nhanh xây dựng cơ sở dữ liệu năng lượng dùng chung, kết nối từ địa phương đến doanh nghiệp đến bộ, ngành để phục vụ quản lý, hoạch định chính sách và MRV phát thải khí nhà kính.
Trung tâm quản lý dữ liệu của một nhà máy khai thác than tại Quảng Ninh. Ảnh: Bá Thắng.
Bộ Công Thương cũng đề nghị các bộ, ngành liên quan, địa phương, hiệp hội, nhà sản xuất phối hợp cập nhật tiêu chuẩn, quy chuẩn hiệu suất năng lượng theo thông lệ quốc tế; nâng tỷ lệ sản phẩm dán nhãn; tăng cường công tác hậu kiểm thị trường và khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nội địa hóa thiết bị hiệu suất cao với chi phí hợp lý.
Để vượt qua rào cản chi phí đầu tư ban đầu cho SDNL TK&HQ, cần đa dạng hóa nguồn vốn: tín dụng xanh, quỹ bảo lãnh, công ty dịch vụ năng lượng ESCO, phát hành trái phiếu xanh, cơ chế chia sẻ tiết kiệm. Các định chế tài chính cần phối hợp cùng cơ quan quản lý, hiệp hội và doanh nghiệp để xây dựng danh mục dự án mẫu, tiêu chí lựa chọn, tiêu chuẩn đo lường hiệu quả và cơ chế phân bổ rủi ro phù hợp.
Nhấn mạnh vấn đề lồng ghép SDNL TK&HQ với lộ trình giảm phát thải và thị trường các-bon, ông Trung cho rằng doanh nghiệp cần chủ động kiểm kê khí nhà kính, xác định đường cơ sở và danh mục biện pháp giảm nhẹ chi phí thấp. Trong đó, các giải pháp tiết kiệm năng lượng thường mang lại hiệu quả tức thì. Việc chuẩn bị dữ liệu và có bằng chứng tin cậy ngay từ bây giờ sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt cơ hội khi thị trường các-bon đi vào vận hành, đồng thời đáp ứng yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu về phát thải.
Cuối cùng, các hoạt động truyền thông cần đi vào chiều sâu, có tính tương tác, dựa trên những câu chuyện thành công cụ thể, dễ nhân rộng. Song Song là tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ quản lý nhà nước, cán bộ quản trị năng lượng tại doanh nghiệp, chuyên gia kiểm toán năng lượng và lực lượng thực thi tại cơ sở.
“Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đồng hành cùng các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp thông qua việc hoàn thiện văn bản hướng dẫn; xây dựng cẩm nang thực thi; duy trì đầu mối tư vấn, giải đáp; thúc đẩy chuyển đổi số dữ liệu năng lượng; huy động các chương trình hợp tác quốc tế, nguồn lực tài chính - công nghệ để hỗ trợ các dự án SDNL TK&HQ có tính lan tỏa cao”, Phạm Thành Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công Thương) khẳng định.

























