Đây là một trong rất nhiều nội dung được đưa ra tại dự thảo cập nhật lần thứ 3 Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC 3.0) của Việt Nam cho giai đoạn 2026-2035, do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì xây dựng.
Cam kết quốc gia thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu
Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu (BĐKH) được thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP21) là văn bản pháp lý toàn cầu quy định trách của tất cả các bên trong ứng phó với BĐKH. Trong đó, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) là trụ cột của Thỏa thuận Paris, thể hiện đóng góp của các quốc gia trong nỗ lực hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu và hướng tới phát thải ròng bằng “0”.
Tính đến hết tháng 10/2025, đã có 66 quốc gia gửi NDC 3.0 tới Ban thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Điểm mới trong các NDC là hầu hết đều tích hợp các mục tiêu phát triển kinh tế trong cam kết giảm phát thải khí nhà kính đến năm 2035, nhằm tăng tính khả thi cho hoạt động triển khai sau này.
NDC 3.0 của các quốc gia khẳng định cam kết đóng góp vào mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu là hạn chế sự nóng lên của Trái đất. Ảnh minh họa: gfmag.
Do số lượng NDC nộp mới chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tổng số hơn 190 nước tham gia Thỏa thuận Paris, mục tiêu giảm phát thải trước mắt chưa thể hiện đầy đủ rằng liệu thế giới có đạt được mức cần thiết để giới hạn sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C (phải giảm 60% phát thải khí nhà kính so với năm 2019). Trước thềm COP30, Liên hợp quốc liên tục hối thúc các quốc gia đưa ra mục tiêu giảm phát thải cao hơn cùng các hành động mạnh mẽ hơn.
Về thích ứng biến đổi khí hậu, phần lớn các nước đã gửi NDC tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như an ninh lương thực và dinh dưỡng, tài nguyên nước, y tế và hệ sinh thái. Trong đó, số lượng NDC đề cập đến tổn thất và Thiệt hại (L&D) tăng hơn so với lần cập nhật trước đây, bao gồm chỉ rõ các rủi ro do BĐKH, tác động và các biện pháp thích ứng.
NDC của các nước cũng nêu kế hoạch hợp tác giảm phát thải tự nguyện thông qua thị trường các-bon theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris. Mặt khác, nhiều nước có kế hoạch tích hợp vấn đề chuyển đổi năng lượng công bằng vào thực hiện NDC. Nước biển dâng và các vấn đề về đại dương trong ứng phó biến đổi khí hậu cũng được quan tâm.
Việt Nam xây dựng mục tiêu cho giai đoạn 2026-2035
Thực hiện trách nhiệm là quốc gia thành viên Thỏa thuận Paris, năm 2025, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện dự thảo NDC3.0. Việc rà soát, cập nhật NDC được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì. Các Bộ, ngành, chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nghiên cứu và các đối tác phát triển đã tham gia tích cực thông qua nhiều đợt làm việc tập trung, tham vấn các cấp.
Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, trong bối cảnh ứng phó với BĐKH toàn cầu còn phải đối mặt với nhiều thách thức nhất là về nguồn lực hỗ trợ cho các nước đang phát triển, việc xây dựng NDC3.0 của Việt Nam được tính toán cụ thể, bài bản và đảm bảo tính khả thi khi triển khai thực hiện.
Cuộc họp tham vấn kỹ thuật xây dựng Báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định giai đoạn 2026-2035 của Việt Nam cuối tháng 10/2025. Ảnh: Khánh Ly.
Các nhóm chuyên gia đã tiến hành đánh giá tiến độ thực hiện NDC năm 2022, xác định kịch bản phát triển thông thường (BAU) và các mục tiêu giảm phát thải giai đoạn 2026-2035 cho từng lĩnh vực: Năng lượng, sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF), chất thải, các quy trình công nghiệp (IPPU). NDC cũng sẽ đưa ra nhu cầu vốn đầu tư tăng thêm để thực hiện các biện pháp giảm phát thải cụ thể. Đơn cử, lĩnh vực năng lượng có mục tiêu lớn nhất và ước tính cần khoảng 73,7 tỷ USD cho giai đoạn 2026-2030 và 105,7 tỷ USD cho giai đoạn 2031-2035.
Nội dung NDC cũng thể hiện những nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng chính sách pháp luật, nhằm hiện thực hóa các quy định của Thỏa thuận Paris và các cam kết quốc tế. Trong đó, tiêu biểu là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn (2022, sửa đổi bổ sung 2025); Chiến lược quốc gia về BĐKH đến năm 2050; Đề án triển khai kết quả COP26...
Đại diện nhóm chuyên gia trình bày dự kiến đóng góp của lĩnh vực năng lượng trong NDC 3.0 của Việt Nam. Ảnh: Đức Tùng.
Về thích ứng BĐKH, NDC thể hiện các nỗ lực thích ứng của Việt Nam thời gian qua, với đánh giá cụ thể cả về mặt thành quả và những thiếu hụt. Các vấn đề trọng tâm bao gồm: Sử dụng hiệu quả và ngăn chặn tình trạng suy giảm, suy thoái tài nguyên nước, tài nguyên đất; phát triển nông nghiệp thông minh, thích ứng với BĐKH; quản lý bảo vệ rừng và các hệ sinh thái; phát triển hạ tầng thích ứng với BĐKH; tăng cường hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe; bảo đảm an sinh xã hội và bình đẳng giới; dự báo và cảnh báo sớm; xây dựng, nâng cấp công trình phòng chống thiên tai; bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản người dân, triển khai các giải pháp nhằm giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do BĐKH; xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về thích ứng; truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng; phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, huy động nguồn lực tài chính, đầu tư cho thích ứng; đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Trong hợp phần thích ứng sẽ lồng ghép đánh giá tổn thất, thiệt hại do BĐKH tại Việt Nam. Những tác động chính bao gồm; nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán, mưa lớn gây ngập lụt đô thị và nông thôn, bão, sóng lớn, triều cường, sạt lở, mưa lớn gây lũ quét, sạt lở đất. Cùng với các ví dụ cụ thể về mức độ thiệt hại trong nhiều năm qua, Việt Nam đưa ra dự tính tổn thất, thiệt hại đến năm 2050 về kinh tế, sản xuất nông nghiệp và thủy sản, năng lượng, công nghiệp và thương mại, hạ tầng, thu nhập của người lao động.
Theo kịch bản nhiệt độ toàn cầu tăng 1,5 độ C, GDP của Việt Nam sẽ giảm 4,5%; và giảm tới 6,7% nếu tăng 2°C. Đến năm 2050, thiệt hại kinh tế vĩ mô có thể lên tới 12-14,5% GDP/năm nếu nước ta không thực hiện các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu.
Cục Biến đổi khí hậu cho biết, quá trình xây dựng NDC sử dụng những số liệu chính thống, những kinh nghiệm hay, bài học tốt, các nghiên cứu có giá trị. Do NDC là nỗ lực cao nhất của quốc gia, có tính ràng buộc quốc tế nên phạm vi sẽ chỉ gồm các vấn đề phù hợp, chắc chắn hoặc kèm theo điều kiện khả thi về mặt kỹ thuật, tài chính để thực hiện, góp phần thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Theo NDC cập nhật năm 2022, bằng nguồn lực quốc gia (đóng góp không điều kiện), Việt Nam cam kết giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) vào năm 2030, tương ứng 146,3 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ). Nếu có hỗ trợ quốc tế (đóng góp có điều kiện), Việt Nam sẽ giảm tới 43,5% lượng phát thải khí nhà kính so với BAU, tương ứng 403,7 triệu tấn CO2tđ vào năm 2030.

























