Thúc đẩy công nghệ giảm phát thải và kinh tế tuần hoàn
Chương trình khoa học công nghệ (KH&CN) quy mô lớn đầu tiên là Chương trình KH&CN ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016-2020 (BĐKH/16-20) đã tạo nền móng quan trọng. Chương trình tập trung các nghiên cứu về giám sát khí hậu, cảnh báo xâm nhập mặn, ngập úng, phát triển vật liệu và thiết bị thân thiện môi trường. Dù không đặt trọng tâm trực tiếp vào giảm phát thải, chương trình đã hình thành hệ thống tri thức và giải pháp công nghệ ban đầu giúp Việt Nam tiếp cận các công nghệ xanh, phục vụ cơ sở dữ liệu cho những chương trình ở giai đoạn sau.
Bộ KH&CN công bố Chương trình KH&CN quốc gia về Net Zero (KC.16/24-30). Ảnh: Quỳnh Anh.
Từ nền tảng đó, Việt Nam bước vào giai đoạn mới quyết liệt hơn với Chương trình KH&CN cấp quốc gia đến năm 2030 “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu” (KC.08/21-30). Đây là chương trình đầu tiên tích hợp rõ mục tiêu giảm phát thải và phát triển thị trường các-bon. Chương trình định hướng nghiên cứu các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, mô hình kinh tế tuần hoàn, vật liệu xanh và các công cụ số hóa phục vụ giám sát môi trường. Những nội dung này không chỉ hỗ trợ quá trình giảm phát thải mà còn giúp doanh nghiệp thích ứng với các tiêu chuẩn các-bon ngày càng khắt khe từ các thị trường lớn.
Công nghệ lõi và chuyển đổi xanh
Đặc biệt, dấu mốc quan trọng nhất trong nỗ lực sử dụng công nghệ để giảm phát thải là việc Bộ KH&CN ban hành Chương trình KH&CN quốc gia về Net Zero (KC.16/24-30) vào tháng 10/2024.
Đây là chương trình đầu tiên có quy mô liên ngành, đặt mục tiêu trực tiếp phục vụ các nhiệm vụ giảm phát thải quốc gia. Chương trình tập trung vào ba trụ cột công nghệ then chốt: công nghệ thu giữ - sử dụng - lưu trữ các-bon (CCUS); phát triển vật liệu và quy trình sản xuất tiết kiệm năng lượng cho các ngành công nghiệp nặng và xây dựng hệ thống giám sát, kiểm kê phát thải dựa trên nền tảng số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo. Những định hướng này không chỉ đi đúng xu thế toàn cầu mà còn giúp Việt Nam từng bước làm chủ các công nghệ lõi, giảm nguy cơ phụ thuộc và nâng cao năng lực ứng phó với các rủi ro khí hậu.
Sản xuất xanh đang được các địa phương đặc biệt coi trọng. Ảnh: Việt Anh.
Biến đổi khí hậu cũng đặt ra các thách thức đặc biệt nghiêm trọng cho Đồng bằng sông Cửu Long - vùng sản xuất nông nghiệp chiến lược của cả nước. Nhận thức rõ điều này, Bộ KH&CN đã ban hành Chương trình KC.15/21-30 nhằm nghiên cứu và ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển bền vững toàn vùng. Điểm nổi bật của chương trình là tập trung cung cấp luận cứ khoa học và mô hình công nghệ thích ứng hạn mặn, sụt lún, và các tác động từ thượng nguồn sông Mê Công. Thông qua việc thúc đẩy công nghệ nông nghiệp thông minh, quản lý nước chủ động và phát triển mô hình đô thị sinh thái, chương trình hướng tới mục tiêu đưa ĐBSCL trở thành vùng kinh tế trọng điểm, văn minh và bền vững. Đây cũng là bước đi quan trọng giúp giảm phát thải trong nông nghiệp - lĩnh vực đóng góp lượng phát thải lớn thứ hai tại Việt Nam.
Việc triển khai đồng loạt nhiều chương trình KH&CN quy mô lớn cho thấy Việt Nam đã nhận thức rõ rằng giảm phát thải là nền tảng cho mô hình tăng trưởng mới. Chỉ khi có công nghệ hiện đại, Việt Nam mới có thể rút ngắn hành trình chuyển đổi và bắt kịp cuộc đua xanh của thế giới. Đây cũng là điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu đang dịch chuyển mạnh mẽ theo hướng xanh - sạch - bền vững.























