‘Kho báu’ nửa triệu ha rừng
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lạng Sơn, địa phương hiện có diện tích đất rừng là 578.021,08 ha (bao gồm cả diện tích đã trồng rừng chưa đạt tiêu chí thành rừng), trong đó: Rừng tự nhiên đạt 257.193,58 ha; Rừng trồng đạt 320.827,50 ha (trong đó diện tích đã trồng rừng chưa đạt tiêu chí thành rừng là 46.432,31 ha); Tổng diện tích đất có rừng đủ tiêu chí tính tỷ lệ che phủ rừng (bao gồm cả rừng ngoài quy hoạch) là 531.588,77 ha, tỷ lệ che phủ rừng 64,0%.
Tổ bảo vệ rừng thôn bản cùng Ban quản lý rừng đặc dụng Hữu Liên phối hợp tuần tra rừng. Ảnh: Quang Duy - TTXVN.
Ông Hoàng Văn Tài, Phó Giám đốc Ban Quản lý Rừng Đặc dụng và Phòng hộ (trực thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lạng Sơn), cho biết, hiện nay, đơn vị đang được giao quản lý bảo vệ, bảo tồn và phát triển 3 Khu rừng đặc dụng của tỉnh Lạng Sơn là các Khu rừng đặc dụng Hữu Liên, Khu rừng đặc dụng Mẫu Sơn và Khu rừng đặc dụng Bắc Sơn với tổng diện tích tự nhiên là 12.832,03 ha.
"Qua nghiên cứu các văn bản của nhà nước và tham gia các buổi tập huấn triển khai về tín chỉ các-bon, chúng tôi nhận thấy tín chỉ các-bon là cơ hội để đơn vị xác định hướng phát triển mới cho các khu rừng đặc dụng được giao quản lý, không chỉ tập trung bảo tồn và phát triển các khu rừng đặc dụng mà còn tạo ra nguồn thu nhập bền vững, góp phần vào sự phát triển kinh tế xanh của Việt Nam”, ông Tài nói.
Theo ông Tài, các khu rừng đặc dụng hiện sở hữu nhiều tiềm năng sẵn có để phát triển tín chỉ các-bon. Đây là những khu vực có diện tích rừng tự nhiên lớn, độ che phủ cao, chủ yếu là rừng thường xanh trên núi đá vôi, có khả năng tích trữ và hấp thụ các-bon cao, ổn định và lâu dài. Bên cạnh đó, hệ sinh thái rừng già ít bị tác động mạnh giúp duy trì trữ lượng sinh khối và các-bon, rất phù hợp với các cơ chế tín chỉ các-bon dựa trên bảo tồn rừng.
Một lợi thế quan trọng khác là giá trị đa dạng sinh học cao của rừng đặc dụng, góp phần nâng tầm “chất lượng” của tín chỉ các-bon. Cùng với đó, sự tham gia tích cực của cộng đồng vùng đệm trong bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh và phục hồi hệ sinh thái tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng mô hình chia sẻ lợi ích từ tín chỉ các-bon. Điều này không chỉ giảm áp lực lên tài nguyên rừng mà còn tăng tính bền vững trong công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Hiện nay, Ban Quản lý Rừng Đặc dụng và Phòng hộ đang từng bước định hướng phát triển tín chỉ các-bon như một xu hướng kinh tế xanh, góp phần gia tăng giá trị rừng, bảo vệ môi trường và tạo thêm nguồn thu nhập bền vững.
Việc bảo vệ nghiêm ngặt, bảo tồn và phát triển rừng đặc dụng - nơi không thực hiện khai thác gỗ - sẽ giúp tăng sinh khối hấp thụ các-bon, giữ đất giữ nước, góp phần ứng phó biến đổi khí hậu, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế lâu dài cho người dân và doanh nghiệp, phù hợp với định hướng phát triển bền vững toàn cầu.
Ông Tài khẳng định đây là mô hình kinh tế xanh mà nhiều quốc gia đang hướng tới, tạo nguồn thu nhập ổn định, lâu dài cho chủ rừng (như các Ban quản lý rừng, công ty lâm nghiệp) và cộng đồng địa phương, cải thiện sinh kế và giảm áp lực lên các khu rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên.
Trên thực tế, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng bổ sung nhiều quy định mới liên quan đến mua bán tín chỉ và hạn ngạch phát thải khí nhà kính, đồng thời đặt nền tảng cho việc tổ chức và phát triển thị trường các-bon trong nước. Đây được xem là công cụ kinh tế quan trọng nhằm thúc đẩy giảm phát thải, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam trong Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Thị trường tín chỉ các-bon cũng sẽ mang lại thêm nguồn lợi cho du lịch khám phá, trải nghiệm, vốn là điểm mạnh của xã Hữu Liên, Lạng Sơn. Ảnh: Võ Việt.
Chuẩn bị cho thị trường tín chỉ các-bon
Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 2/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon, UBND tỉnh Lạng Sơn đã chỉ đạo các sở, ban, ngành liên quan triển khai nhiều nhiệm vụ nhằm phát triển thị trường tín chỉ các-bon trên địa bàn tỉnh.
Theo đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường Lạng Sơn được giao chủ trì, phối hợp tham mưu triển khai các nhiệm vụ liên quan đến kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính, phát triển thị trường các-bon và xây dựng cơ chế quản lý tín chỉ các-bon phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đồng thời bảo đảm tuân thủ Luật Lâm nghiệp và các quy định liên quan.
Sở cũng đang thực hiện rà soát, cập nhật cơ sở dữ liệu về hiện trạng rừng; đánh giá tiềm năng giảm phát thải và hấp thụ các-bon từ rừng đến năm 2030 và tầm nhìn 2050. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để xác định mức đóng góp của lĩnh vực lâm nghiệp vào mục tiêu giảm phát thải theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), đồng thời phục vụ cho việc tham gia trao đổi tín chỉ các-bon rừng với các đối tác trong và ngoài nước.
Cùng với đó, các sở, ngành liên quan sẽ tổ chức thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo NDC; rà soát, tổng hợp và đánh giá các hoạt động giảm phát thải trên địa bàn tỉnh để xác định tiềm năng tạo và trao đổi tín chỉ các-bon. Các tổ chức, doanh nghiệp triển khai chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi - bù trừ tín chỉ các-bon phải thực hiện trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động và số lượng tín chỉ tạo ra. Song song với đó, tỉnh cũng đẩy mạnh tuyên truyền về mục tiêu giảm phát thải, phương thức tạo tín chỉ các-bon, tham gia thị trường các-bon tự nguyện và thị trường tuân thủ, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các bên liên quan.
Tuy nhiên, để các-bon rừng trở thành sản phẩm hàng hóa có thể chuyển nhượng, cần phải trải qua một quy trình đặc thù gồm nghiên cứu khả thi, xây dựng dự án theo tiêu chuẩn phù hợp, thẩm tra, xác nhận, phát hành và trao đổi tín chỉ. Quy trình này đòi hỏi sự tham gia của các tổ chức độc lập, trong khi hệ thống quy định hiện hành tại Việt Nam vẫn còn thiếu, hoặc chưa hoàn toàn tương thích với thông lệ quốc tế.
Ông Hoàng Văn Tài, Phó Giám đốc Ban Quản lý Rừng Đặc dụng và Phòng hộ Lạng Sơn, cho rằng với thế mạnh tự nhiên nhiều rừng, tín chỉ các-bon là cơ hội lớn để đơn vị đề ra một trong những hướng đi mới cho các khu rừng đặc dụng được giao quản lý. Ảnh: Võ Việt.
Hiện nay, các quy định liên quan đến chuyển nhượng tín chỉ các-bon rừng mới chỉ được đề cập chung trong khung pháp lý về thị trường các-bon, trong đó có Nghị định 06/2022/NĐ-CP. Việc thiếu các quy định cụ thể vẫn là rào cản lớn đối với quá trình đàm phán và triển khai hoạt động thương mại tín chỉ các-bon rừng.
Nếu được phát huy đúng thời điểm và theo hướng hợp lý, tín chỉ các-bon không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững cho tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.
























