Phát triển nhanh, dẫn đầu ASEAN về điện mặt trời
Việt Nam sở hữu tiềm năng năng lượng tái tạo (NLTT) phong phú, trải rộng trên nhiều loại hình. Về năng lượng mặt trời, số giờ nắng trung bình đạt 1.600-2.700 giờ mỗi năm, bức xạ trung bình khoảng 4-5 kWh/m²/ngày, đặc biệt thuận lợi tại khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tiềm năng kỹ thuật điện mặt trời được ước tính lên tới hàng trăm GW. Tiềm năng điện gió trên bờ khoảng 30-40 GW và điện gió ngoài khơi lên tới 500-600 GW, thuộc nhóm cao nhất châu Á.
Tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam lên tới 500-600 GW. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Bên cạnh đó, nguồn sinh khối từ phụ phẩm nông nghiệp như trấu, bã mía, phụ phẩm gỗ cũng mang lại tiềm năng phát điện khoảng 10-12 GW, góp phần gia tăng giá trị chuỗi nông nghiệp và giảm ô nhiễm môi trường nông thôn.
Nhờ các chính sách khuyến khích sớm, đặc biệt là cơ chế hỗ trợ giá cho NLTT (FIT) giai đoạn 2017-2021, ngành NLTT Việt Nam đã có bước phát triển bứt phá. Theo số liệu của Bộ Công Thương, đến hết năm 2023, tổng công suất điện mặt trời lắp đặt của Việt Nam đạt trên 18-20 GW, dẫn đầu ASEAN và nằm trong nhóm các quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong giai đoạn cao điểm.
Cuối năm 2023, tổng công suất vận hành điện gió khoảng 4,5-5 GW, chủ yếu là điện gió trên bờ và gần bờ. Tính chung, NLTT hiện chiếm khoảng 25-27% tổng công suất nguồn điện quốc gia (không bao gồm thủy điện lớn), góp phần quan trọng vào bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.
Những kết quả này giúp Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, đặc biệt sau khi cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại COP26 và tham gia Tuyên bố chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP).
Những điểm nghẽn cần sớm tháo gỡ
Tuy nhiên, phía sau bức tranh tăng trưởng nhanh là nhiều thách thức mang tính hệ thống. Trước hết, hạ tầng lưới điện truyền tải chưa theo kịp tốc độ phát triển nguồn NLTT. Tình trạng quá tải cục bộ tại các khu vực tập trung nhiều dự án như Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Nguyên đã dẫn tới hiện tượng cắt giảm công suất, làm giảm hiệu quả đầu tư và niềm tin của nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, chi phí đầu tư ban đầu cho NLTT, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, vẫn ở mức cao, trong khi cơ chế giá điện đang chuyển sang đấu thầu, đàm phán nhưng chưa hoàn thiện đầy đủ, khiến nhiều dự án chậm triển khai. Ngoài ra, Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào công nghệ và thiết bị nhập khẩu, từ tuabin gió, tấm pin mặt trời đến hệ thống lưu trữ năng lượng, làm gia tăng chi phí và rủi ro chuỗi cung ứng.
Mặc dù khung pháp lý và quy hoạch đã được cải thiện với Quy hoạch điện VIII, song vẫn cần thêm các hướng dẫn cụ thể, bảo đảm đồng bộ giữa quy hoạch nguồn, lưới và lưu trữ, cũng như cơ chế chia sẻ rủi ro dài hạn cho nhà đầu tư.
Để khai thác hiệu quả tiềm năng, các chuyên gia cho rằng cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp: hoàn thiện thị trường điện cạnh tranh; đẩy nhanh đầu tư lưới truyền tải và hệ thống lưu trữ; phát triển công nghiệp phụ trợ, từng bước nội địa hóa thiết bị; đồng thời xây dựng chính sách dài hạn, ổn định nhằm thu hút nguồn vốn tư nhân và quốc tế.
Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ trọng NLTT (không bao gồm thủy điện lớn) đạt khoảng 30-39% tổng công suất và tiếp tục tăng mạnh sau năm 2030, trong đó điện gió ngoài khơi được xác định là trụ cột quan trọng để phục vụ mục tiêu net-zero vào năm 2050.












![Năng lượng mới trên biển: [Bài 1] Thắp sáng vùng đảo xa](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/doanhtq/2025/12/14/4625-2221-dji_0698-nongnghiep-102049.jpg)













