Phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường phỏng vấn TS. Dư Văn Toán, Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) về tiềm năng và những rào cản chính sách trong phát triển năng lượng tái tạo từ biển tại Việt Nam.
TS. Dư Văn Toán cho rằng, cấp thiết nhất hiện nay là ban hành một đạo luật hoặc nghị định chuyên biệt về điện gió ngoài khơi làm nền tảng pháp lý giúp nhà đầu tư đánh giá rủi ro và triển khai dự án thuận lợi. Ảnh. Trường Giang.
Thưa ông, Việt Nam được đánh giá là quốc gia giàu tiềm năng phát triển các dạng năng lượng tái tạo từ biển. Những lợi thế này có ý nghĩa như thế nào trong lộ trình chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam?
Việt Nam có vùng biển rộng gần một triệu km² và đường bờ biển dài hơn 3.260 km, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác nhiều dạng năng lượng tái tạo biển. Riêng điện gió ngoài khơi, theo các nghiên cứu quốc tế, tiềm năng kỹ thuật của Việt Nam đạt khoảng 950 GW, cao hàng đầu Đông Nam Á và đủ khả năng đáp ứng nhiều lần nhu cầu điện trong nước.
Quan trọng hơn, các dạng năng lượng tái tạo biển như gió ngoài khơi, sóng, thủy triều, gradient nhiệt - muối, bức xạ mặt trời trên biển hay sinh khối biển… đều là những nguồn năng lượng sạch, có mức phát thải các-bon rất thấp. Việc đưa các nguồn năng lượng này vào hệ thống sẽ giúp giảm đáng kể lượng phát thải từ ngành năng lượng, lĩnh vực đang chiếm hơn 60% tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Trong bối cảnh Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, phát triển mạnh năng lượng tái tạo biển không chỉ là nhu cầu tự nhiên mà còn là đòi hỏi cấp bách để bảo đảm an ninh năng lượng, giảm carbon và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Những khoảng trống pháp lý đang ảnh hưởng thế nào đến tiến trình khai thác tiềm năng dồi dào này, thưa ông?
Mặc dù chúng ta đã có những văn bản định hướng quan trọng như Nghị quyết 36-NQ/TW về phát triển bền vững kinh tế biển, Nghị quyết 55-NQ/TW về định hướng phát triển năng lượng quốc gia, cùng các luật như Luật Biển, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo, Luật Điện lực và các quy hoạch liên quan, nhưng tất cả mới dừng ở mức định hướng khung.
Để phát triển các dạng năng lượng tái tạo biển, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, Việt Nam còn thiếu rất nhiều nội dung cốt lõi, bao gồm: Chiến lược quốc gia về năng lượng đại dương; Luật hoặc nghị định chuyên biệt về điện gió ngoài khơi; Quy hoạch không gian biển dành riêng cho năng lượng tái tạo; Bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật - môi trường - xã hội; Cơ chế thị trường điện, thị trường các-bon và cơ chế tài chính xanh; Chính sách về hạ tầng, cảng biển, chuỗi cung ứng, nguồn nhân lực
Những khoảng trống này khiến doanh nghiệp khó tiếp cận đất, biển, khó được cấp phép khảo sát, khó ký hợp đồng mua bán điện, từ đó cản trở quá trình chuyển đổi năng lượng và giảm phát thải các-bon trên quy mô lớn.
Nói cách khác, tiềm năng thì rất lớn nhưng chưa thể biến thành động lực tăng trưởng xanh nếu thiếu khung pháp lý phù hợp.
Từ những hạn chế đó, ông đề xuất hệ thống giải pháp nào nhằm khơi thông động lực phát triển năng lượng tái tạo từ biển?
Tôi cho rằng cần triển khai đồng bộ 8 nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, xác lập Chương trình khoa học - công nghệ quốc gia về năng lượng tái tạo biển. Chương trình phải có tính tổng thể, bao quát cả chính sách, khảo sát thực địa, đánh giá môi trường - xã hội, phát triển công nghệ, chuỗi cung ứng và đóng góp giảm phát thải các-bon.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật và kỹ thuật. Việt Nam cần xây dựng bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn dành riêng cho điện gió ngoài khơi; quy định rõ trách nhiệm quản lý công trình, hạ tầng, thị trường điện, huy động vốn, đào tạo nhân lực. Bộ quy chuẩn phải lồng ghép các yêu cầu về giảm phát thải các=bon theo tiêu chuẩn quốc tế.
Phát triển năng lượng tái tạo biển không chỉ là câu chuyện năng lượng mà còn là chiến lược giảm phát thải các-bon, tăng sức cạnh tranh quốc gia và gìn giữ môi trường biển cho các thế hệ tương lai. Ảnh: Diệu Linh.
Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đặc biệt với các quốc gia có kinh nghiệm như Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan. Hợp tác phải tập trung vào nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ gió ngoài khơi, mô phỏng khí hậu - hải dương, đồng thời hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong giai đoạn khởi động.
Thứ tư, xây dựng quy hoạch không gian biển cho năng lượng tái tạo. Đây là điều kiện tiên quyết để giải quyết xung đột giữa các ngành kinh tế biển và tạo cơ sở pháp lý minh bạch cho cấp phép.
Thứ năm, phát triển cơ chế tài chính bền vững, bao gồm định giá tác động môi trường, cơ chế thuế - phí carbon, tín chỉ các-bon biển, quỹ phục hồi sinh thái và quỹ phát triển năng lượng xanh. Việc gắn kết giữa phát triển năng lượng tái tạo biển và thị trường carbon sẽ tạo ra nguồn lực tài chính mới cho quá trình chuyển đổi năng lượng.
Thứ sáu, đẩy mạnh khảo sát kỹ thuật, đo gió và đánh giá tiềm năng toàn bộ vùng biển đặc quyền kinh tế. Khảo sát phải đi kèm phân tích tác động môi trường, xã hội, đa dạng sinh học, cũng như tiềm năng sản xuất hydrogen xanh, amoniac xanh và điện gió xa bờ không nối lưới.
Thứ bảy, xây dựng chiến lược quốc gia và quy hoạch tổng thể năng lượng tái tạo biển. Chiến lược cần xác định rõ mục tiêu đóng góp giảm phát thải các-bon của từng dạng năng lượng, vị trí ưu tiên phát triển, nhu cầu hạ tầng và lộ trình hình thành ngành kinh tế năng lượng biển.
Thứ tám, triển khai cơ chế thí điểm 3-4 GW điện gió ngoài khơi đến năm 2030, gắn với phát triển chuỗi giá trị nội địa và sản xuất hydrogen xanh. Giai đoạn thí điểm sẽ thử nghiệm cơ chế pháp lý, mô hình đầu tư và cách thức kết nối với thị trường điện, qua đó tạo nền tảng mở rộng sau năm 2030.
Theo ông, đâu là nhiệm vụ mang tính quyết định trong ngắn hạn để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo từ biển?
Việc cấp thiết nhất hiện nay là ban hành một đạo luật hoặc nghị định chuyên biệt về điện gió ngoài khơi. Đây sẽ là nền tảng pháp lý cho quản lý nhà nước, cho phép cơ quan chức năng cấp phép minh bạch, đồng thời giúp nhà đầu tư đánh giá rủi ro và triển khai dự án thuận lợi.
Gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 70 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, trong đó có đề cập phát triển điện gió ngoài khơi. Do đó, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành cần sớm cụ thể hóa trong ngắn hạn bằng kế hoạch phát triển điện gió ngoài khơi, còn về trung và dài hạn cần xây dựng hệ thống pháp lý chuyên biệt, kể cả khung pháp lý cho xuất khẩu 3.000-5.000 MW điện gió ngoài khơi sang Singapore và Malaysia sau năm 2030.
Song song với đó, chúng ta cần đội ngũ doanh nghiệp tiên phong, nhất là những đơn vị có kinh nghiệm ngoài khơi để dẫn đầu trong việc triển khai các dự án mẫu. Những dự án này sẽ cung cấp dữ liệu thực tiễn, từ đó giúp Nhà nước hoàn thiện khung chính sách và tạo xung lực cho ngành điện gió ngoài khơi.
Phát triển năng lượng tái tạo biển không chỉ là câu chuyện năng lượng mà còn là chiến lược giảm phát thải các-bon, tăng sức cạnh tranh quốc gia và gìn giữ môi trường biển cho các thế hệ tương lai.
Xin cảm ơn ông.
![Năng lượng mới trên biển: [Bài 2] Bứt phá với điện gió ngoài khơi](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/256w/files/giangdt83/2025/11/28/0838-dji_0672-nongnghiep-150833.jpg)
![Năng lượng mới trên biển: [Bài 2] Bứt phá với điện gió ngoài khơi](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/giangdt83/2025/11/28/0838-dji_0672-nongnghiep-150833.jpg)













